Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

LÂM TẶC


CHƯƠNG IV

     Hình như mỗi bước chân leo lên con dốc vào trạm Huy càng bực mình. Mẹ cha cái thằng Trọng Hói, mồm cứ leo lẻo: "thế nào rồi chúng em cũng chiêu đãi anh một chầu cá anh vũ tới bến". Giờ thì ăn quả đắng rồi, hứa với sếp Kim mà chậm đã chết chứ đừng nói không có. Ngặt nỗi lão Tám Cá không phải loại hám tiền. Cá gì lão bán chứ cá anh vũ lão cho, mà cho cái loại quanh năm chỉ dưa cà canh suông mới chết. Lão Sáu Vẩu trước đây cũng biết bắt cá anh vũ nhưng từ khi lão Tám Cá về cất trại rồi làm nhà bè trên sông Gâm là lão bỏ nghề. Bỏ là bỏ bắt cá anh vũ, còn chài lưới vẫn là cái nghề nuôi sống lão. Năn nỉ lão Sáu Vẩu hết cách mà lão khăng khăng không là không: "Loại cá này của dòng dõi chúa Bầu, trước đây tôi bắt là ăn trộm thôi". "Đã ăn trộm một lần cũng mang tiếng ăn trộm, ăn trộm lần nữa có sao", nghe Trọng Hói nói vậy, lão sáu Vẩu trừng mắt: "Mày bước ra khỏi nhà cho tao". Trọng Hói đang chần chừ thì lão rút cái chỉa cá cài bên vách cái roạt nhằm mặt Trọng Hói đâm tới, may lúc ấy Huy kịp kéo áo lão chứ không thì không biết chuyện gì xảy ra. . .
     Lão Tám Cá là dòng dõi chúa Bầu thì Huy mới biết gần đây. Thời chúa Bầu cai quản Tuyên Quang đã gần ba trăm năm rồi mà sao cái uy dòng dõi lớn thế không biết. Kể cũng lạ, tại cái tỉnh này ngoài di tích thành Bầu không có cái đền nào thờ chúa Bầu nhưng bên Lào Cai, Yên Bái rồi xuống cả Thái Thụy - Thái Bình lại có đến sáu cái đền thờ! Lòng trung của dân không chỉ thể hiện qua đốt hương cúng bái mà ngay cả trong việc làm nữa. Nghĩ thế, Huy thấy cái vị thế nhà chúa trong tâm thức dân giã quả là ghê gớm. Hèn gì, ngay cả già Bân bên Yên Sơn giàu có là thế, uy tín là thế mà cứ nghe lão Tám Cá răm rắp, mỗi lời của lão cứ như là thánh chỉ vậy. . .
     - Giờ ơi! Chờ mỏi cả cổ giờ mới tháy hai anh.
Huy nhìn lên thấy Tường Vi đang ôm eo Thảo sương cười rúc rích.
     - Mỏi cổ chút nữa anh Huy tẩm quất cho là khỏe ngay. Trọng Hói vừa nói vừa cười.
     - Có câm cái miệng lại không, lẻo mép quá rồi hư sự chưa thấy à.
Tường Vi chìa tay nắm tay Huy kéo lên:
     - Thôi mà anh! Lâu rồi gặp mà anh không vui gì hết, chắc bị em nào cho leo cây phải không?
Huy dịu giọng:
     - Em, em cái con khỉ mốc.
Bên phòng ăn, Cần - nhân viên của trạm giúp Thảo Sương bày biện bàn ăn. Trạm có năm người, hai đang nghỉ phép, thêm Tường Vi, Thảo Sương vẫn chỉ là năm; thế mà trên bàn ngồn ngộn thức ăn, nào là bồ câu hầm thuốc bắc, bê thui, bò kho tàu, súp vây cá, ốc đắng om chuối tiêu. . . Tường Vi nài nỉ:
     - Thôi mà, anh Huy, việc đâu còn có đó. Cứ ăn uống xong hãy tính.
Huy uể oải ngồi vào bàn. Trọng Hói mở ví lấy ra một miếng mật gấu khô bằng nửa đốt ngón tay út, cho vào bát sứ Hải Dương, chế một chút nước sôi, dầm tan mật rồi pha vào chai rượu Mao Đài thằng Cần vừa khui. Rót rượu thật điệu đà, Thảo Sương nâng ly:
     - Mời anh Huy, anh Trọng, mời tất cả nhân ngày hội ngộ.
Uống cạn ly rượu, Huy thấy cái vị nhân nhẩn đắng của mật gấu không tan nhanh như mọi khi mà vẫn cứ nghèn nghẹn, cân cấn đầu cuống họng. Tường Vi xúc cho Huy miếng ốc đắng om chuối:
     - Đắng với đắng thành ngọt, anh Huy.
     - Em với anh thành một chứ Tường Vi? Thảo Sương châm chọc.
Trọng Hói nhìn Thảo Sương chằm chằm, cười lộ hàm răng mảnh, khá đều, đôi mắt lấp lánh đĩ thỏa:
     - Thế còn em với anh đêm nay là một nhé!
     - Là một để bà vợ anh lột xác em à.
     - Lột là lột thế nào, để chỉ có anh lột trên xuống dưới từ từ như hôm nảo hôm nào, hi hi. . .
Thằng Cần nháy mắt với Tường Vi, ranh mãnh:
     - Giọng cười anh Trọng đổi một tí thì sang hơn chị nhỉ.
     - Đổi thế nào mầy?
     - Thì hi hi thành he he be be. . .
     - Tổ bố cái thằng Cần lưu manh.
     - Em không lưu manh mà chỉ lanh mưu thôi.
Cạn tuần rượu thứ ba, bên Tường Vi dìu dịu mùi nước hoa, dìu dịu giọng nói, nỗi bực dọc tan biến tự lúc nào, thay vào đó là sự hưng phấn mỗi lúc một đầy. Đặt tay lên đùi Tường Vi, Huy hỏi:
     - Em lên đây chắc là có chuyện?
Tường Vi ghé tai Huy nói nhỏ:
     - Có một vụ ngon hết ý, chút nữa không có thằng Cần em nói.
Đúng là một vụ ngon hết ý nhưng ăn mảnh thì khó mà dây vào tụi thằng Minh Chột, Trí Vịt thì chẳng còn lại bao nhiêu. Mình có quyền kiểm tra, bắt giữ nhưng không có quyền khai thác, lưu thông. Vùng này còn hơn chục cây lát hoa vân đá đều nằm trong bản đồ quản lý lâm nghiệp cả. . . Như hiểu được suy nghĩ của Huy, Tường Vi nói:
     - Cái quan trọng là phải làm nhanh. Tất cả phải gọn gàng trong hai, ba ngày, chậm lắm cũng không sang ngày thứ năm. Chục khối lát thành khí cũng phải ba, bốn cây. Anh xem nơi nào dễ khai thác bàn với Minh Chột làm luôn.
     - Cũng tính thế, nhưng thằng Minh Chột tham lắm, rồi cả thằng Trí Vịt nữa, xem ra mình chẳng còn bao nhiêu.
     - Anh cũng tham vừa thôi, gỗ của rừng, công cán cưa xẻ đáng là bao. Đưa về đến Việt Trì là hốt bạc rồi.
     - Nếu xong vụ này em tính phần của em là bao nhiêu?
     - Tùy anh thôi! Mấy lần trước anh có hỏi đâu, sao giờ lại thế?
Huy cười cười thay cho trả lời, kéo tay Tường Vi:
     - Đi với anh.
     - Đi đâu?
     - Đi khảo sát khai thác nơi nào thuận tiện, nhân thể lên lâm trường bàn bạc với Minh Chột luôn.
     - Việc bàn bạc với Minh Chột mình anh tiện hơn, còn làm sao em lội rừng trèo núi mà khảo với sát?
     - Không phải lội rừng trèo núi đâu. Đi rồi biết
Huy dắt Tường Vi xuống bến, nổ máy ca nô ngược dòng sông Gâm. Qua cửa suối Lồ lâm trường Bình Minh độ hai km, Huy chỉ tay lên sường núi bên trái:
     - Chỗ kia có hai cây lát hoa, cây dưới nhỏ, cây trên lớn hơn. Nhưng đây gần lâm trường quá, dễ lộ.
     - Cây nào đâu anh?
     - Thì cây có tán màu đỏ đó. Loại cây này lá non màu đỏ nên nhìn là biết ngay.
Ngược dòng sông, gió nhẹ, mấy cọng tóc mai vắt qua nửa má và đôi môi mọng đỏ như vẽ nên nét tinh nghịch, hồn nhiên. Ngoài ba mươi rồi mà  Tường Vi trông còn quá hấp dẫn trong mắt đàn ông. Ngực đầy dặn, eo thon rất hợp với cái áo màu xanh lá mạ may rất khéo vừa tôn thêm làn da trắng mịn vừa tạo nét duyên dáng, trẻ trung.
     Qua vực cây Sung, Huy cho ca nô vào cửa con suối nhỏ. Khúc sông này hoang vắng, nói như Nguyễn Tuân "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một bờ cổ tích tuổi xưa"
     - Sao dừng đây anh?
     - Em không thấy khúc sông này đẹp sao?
     - Vắng vẻ quá.
Huy kéo Tường Vi ngồi xuống sàn ca nô: "Em đẹp quá"; rồi ôm chầm Tường Vi, tìm đến đôi môi của nàng. Máu trong người Huy chảy rần rật. Mẹ kiếp, lần này mà không "thịt" được em thì khó có cơ hội nào nữa. Mấy lần rồi mà lần nào em cũng thoát, chỉ may mắn dừng lại ở Y chứ không làm sao nàng cho tới Z. Không gian vắng lặng. Hơi rượu vẫn còn nồng nàn. Không để cho Tường Vi kịp phản ứng, Huy đè nàng xuống, tay lần cởi nút áo.
     - Đừng anh . . ,
Huy thở gấp gáp:
     - A...nh . . a. . nh cho e...m. . .em t. . ất cả . . phần. . của a. . anh!. ..
Tường Vi nghe nước vỗ mạn ca nô. Dấn thân vào nghề này cô biết thế nào cũng có ngày hôm nay nhưng không nghĩ rằng nó lại nhanh chóng xảy ra đến thế.
     

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

LÂM TẶC


CHƯƠNG III

     Đang ngồi phía sau bếp chuốt cái cần câu, ông Tám Cá nghe thấy tiếng gọi:
     - Có bán cá khô...ô...ô...ông, ông Tám?
Thằng Thuộc kéo dài tiếng "không" rồi buông hai tiếng "ông Tám" như người ta đổ câu vọng cổ. Chưa kịp cài mảnh thủy tinh vào vách, nhà bè ông đã rập rình. Đứng dậy, ông đã thấy anh Nghĩa đang với tay kéo  anh Bường.
     - Quên lâm trường thật rồi, anh Nghĩa? Ông Tám Cá hỏi thay cho lời chào.
     - Sao quên được, mới ghé qua lâm trường. Hôm nay đến ông nhậu cho tới trưa mai luôn.
     - Tưởng gì, cao lương mĩ vị tiếp khách hàng tỉnh không có, chứ gà và cá anh nhậu với tôi cả năm.
     - Trên đời này không ai sướng bằng ông. Chỉ vua chúa ngày xưa mới được ăn cá anh vũ, còn ông muốn là có, phải không?
     - Anh nói quá rồi. Bây giờ cá đâu còn như ngày xưa, nhưng hôm nay tôi đãi anh loại cá, mà theo tôi còn ngon hơn cá anh vũ.
     - Cá cọm phải không chú Tám? Ông Tám Cá gật đầu.
     - Sao anh Bường biết? Ông Nghĩa hỏi.
     - Thì tôi được thưởng thức mấy lần rồi. Ông Bường trả lời.
Ông Tám kéo cái rặc cá trong lồng lên. Những con cá bằng đầu ngón tay út, dài độ mười phân nhảy lách chách, vảy ánh lên lấp lóa dưới ánh nắng mặt trời. Rặc cá hơn 2 kg. Ông Bường hỏi:
     - Đâu mà nhiều dữ, chú Tám?
     - Tôi và thằng Quân câu hôm qua. Nó sát cá còn hơn tôi. Ông quay sang Thuộc:
     - Chú lên trại hái ít lá gừng, nhổ củ nghệ rồi bắt con gà xuống đây luôn thể.
     - Gà chi cho mất công, chừng này nhậu ớn.
     - Là tôi phòng có thêm khách.
Ông Bường kể với ông Nghĩa về cách bắt loại cá này, chỉ duy nhất là câu thôi, ngoài ra không có cách nào khác. Loại cá này sống ở nơi nước chảy không xiết, không chậm và ở độ sâu từ quá gối đến ngực. Chúng gặm rêu non trên đá cuội tầm độ chín giờ sáng đến ba giờ chiều. Mùa nước trong đôi khi người ta thấy lấp lóa ánh bạc do vẩy cá phản chiếu ánh sáng mặt trời. Cần câu phải chuốt nhỏ, cỡ đầu đũa, cước dùng loại mảnh nhất. Lưỡi câu phải uốn chứ thị trường không có bán và không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để uốn lưỡi câu. Thường thì người ta uốn bằng kim may, vừa hơ lửa trên ngọn đèn Hoa Kỳ vừa dùng cái panh y tế loại nhỏ nhất để uốn. Thép kim cứng, không cẩn thận, nhẹ nhàng là gãy ngay, cả tiếng đồng hồ mới uốn được một cái. Lại nữa, khi câu giật không khéo, vướng một tí là gãy. Rồi mồi câu phải ngược suối tìm rêu đá non. Do quá kỳ công nên dọc con sông Gâm này số người biết câu cá cọm tính không hết bàn tay.
     Ông Tám Cá giã nắm ớt xanh, muối, nghệ trộn đều với lá gừng thái nhỏ. Ông Bường tiện ống nứa có nắp đậy, dùng mũi dao ngoắy một lỗ nhỏ trên nắp. Xong xuôi, ông lấy một phần ba gia vị ông Tám Cá làm sẵn, cho vào ống nứa rồi cho tiếp cá vào. Cứ một lớp gia vị một lớp cá.
     - Có cần cho thêm chút nước trà không, chú Tám?
     - Mình nướng từ từ nên không cần anh ạ.
Bắc nồi cháo lên bếp, gạt than, kê xéo ống cá lam, vài phút ông Tám lại xoay một phần tư ống. Độ nửa tiếng, mùi cá đã thơm lừng.
     - Thơm quá, chín chưa anh Tám? Thuộc hỏi.
     - Độ 15 phút nữa, chú dọn chén dĩa là vừa.
Ông Tám Cá lấy ra một bầu rượu, nói với Thuộc:
     - Hôm nay có anh Nghĩa, anh Bường, nhậu theo lối các cụ nhé.
Thuộc hiểu ý. Tửu lượng anh Nghĩa khá nhưng không bao giờ anh uống đến "sần" chứ nói chi say. Uống để nói chuyện, để tâm sự cho có "không khí", chứ uống rồi mượn chén, lè nhè là anh rất ghét.
     Ông Bường đổ một phần cá ra dĩa rồi đậy nắp lại, để ống cá lam cạnh bếp. Chưa bao giờ ông Nghĩa thấy mùi cá thơm đến thế. Uống ly rượu, ông ngạc nhiên:
     - Rượu gì mà "ác" quá, chú Tám?
     - Rượu nếp và ý dĩ, anh ạ. Tháng trước, già Bân bên Yên Sơn gửi cho tôi.
     - Hạt ý dĩ người ta làm thuốc, còn già Bân nấu rượu, trời đất!
Thuộc nhấp một ngụm. Hơi rượu nồng nhưng đằm và thơm lắm; nuốt xong nghe ngòn ngọt ở cổ họng, tê tê đầu lưỡi, uống tới đâu biết tới đó. Gắp một con cá, cắn một nửa, chầm chậm nhai. Vị ngọt dai của cá, vị cay cay của ớt quyện lẫn mùi lá gừng tạo nên hương vị thơm ngon khó tả, nói như ngôn ngữ đời sống là "trên cả tuyệt vời", Thuộc nghĩ.
     Nồi cháo nhừ, ông Bường kéo rặc, tắc mớ cá còn lại vào rá, đổ vào. Để cháo sôi bùng trở lại, ông dụi lửa, thái nắm hành hoa nêm vào rồi múc một chén cho anh Nghĩa.
     - Ăn chút đã anh.
Ông Nghĩa múc một thìa cháo. Vị dẻo ngọt của gạo nương, vị béo và dai của cá, thơm thơm của hành hoa, rồi làn gió sông mát rượi, tiếng sóng vỗ bờ êm êm, sàn bè lắc lư theo nhịp sóng nhè nhẹ, rồi những gương mặt bạn bè thân thương làm ông quên hết những ưu phiền. Tình nghĩa bạn bè làm cho món ngon lại càng ngon hơn. Ông sống giản dị, ăn uống đạm bạc. Ở tỉnh, đôi lúc phải tiếp khách khứa, ăn những món ăn chế biến cầu kì trong những nhà hàng sang trọng, thật lòng mà nói cũng ngon đấy nhưng vẫn cứ khách khí, nhàn nhạt làm sao. Còn ở đây, xứ đồng rừng này, bạn bè đãi ông món ăn chế biến không thể đơn giản hơn mà ngon gấp vạn lần. Miếng ngon phải thấm tình người. Nghĩ thế, nhìn bạn bè, ông thấy cay cay sống mũi.
     - Ăn chứ anh Nghĩa, nghĩ gì thế? Ông Tám Cá hỏi.
     - À không, mà này, sao không để dành ít cá cho đám thằng Quân?
     - Tụi nó xẻ gỗ ở Pắc Có, tuần sau mới về.
     - Mình chưa biết mặt mũi nó, tính bắt rể à?
Ông Tám Cá cười:
     - Được thế thì còn gì bằng. Thời này, "con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy" anh à.
     - Không biết nó học ở đâu mà chuyện chi cũng giỏi. Thuộc đế thêm vào. Rồi anh kể chuyện chuyến tàu mắc cạn. Nghe xong chuyện Thuộc kể, anh Nghĩa hỏi:
     - Mà sao nó kêu ông bằng sư phụ?
Uống một ly rượu, ông Tám Cá chậm rãi kể:
     Năm 1972 tôi bị thương trong trận đánh Dốc Miếu, Quảng Trị. Ra bắc, vết thương tạm lành, năm 73 tôi về an dưỡng Đoàn 200 Phủ Quỳ. Cứ chiều chiều tôi đi câu cá, ít thì cho dân, nhiều thì đưa về cho mấy đứa nhà bếp nấu canh chua. Đi câu là một chuyện, còn một mục đích khác của tôi là dọ tìm gia đình một đồng đội đã hy sinh. Anh ấy khác tiểu đoàn, cũng quen nhau nhưng không thân lắm, chỉ biết địa chỉ, quê quán, thế thôi. Nhưng từ khi anh hy sinh tôi thầm nhủ thế nào cũng phải tìm bằng được gia đình anh ấy. Anh hy sinh để chúng tôi sống. Trận đánh đêm hôm ấy, anh trực tiếp xuống đi cùng tiểu đội được phân công đánh sở chỉ huy. Hiệu lệnh là giờ G, khi nghe tiếng bộc phá ở sở chỉ huy địch nổ là bên tôi tấn công vào trại lính biệt động. Chúng tôi cắt cửa mở chậm nên khi bộc phá nổ đội hình mới vào được một nửa. Ném đươc chục trái lựu đạn, bắn được vài loạt chúng tôi phải rút. Phía cửa mở chúng tôi bị lộ, địch khống chế nên tôi đành kéo số anh em đã vào vừa đánh vừa rút sang phía cửa mở bên anh. Gần tới cửa mở, chúng phát hiện, bắn loạn xạ. Tôi bị thương ở vai trái và sườn bên phải. Anh Tính trườn lại lấy cơ số đạn còn lại của tôi, ra lệnh tất cả anh rút, đưa tôi ra và ba chiến sĩ bị thương khác ra khỏi trận địa; còn anh vòng lại, đánh vào mấy ổ hỏa lực của địch. Lúc ấy tôi ngất đi, đến khi tỉnh lại thì đã nằm ở trạm quân y tiền phương. Mấy hôm sau, Toàn, một đại đội phó của tiểu đoàn anh, đến thăm tôi, cho tôi hay anh đã hy sinh. Đêm hôm sau, dù đơn vị cấm, nhưng Toàn vẫn mò vào tìm anh thì thấy xác anh bên cạnh lô cốt sở chỉ huy. Cẩn thận, từ từ từng chút một, Toàn gỡ được quả lựu đạn và tháo dây điện quả mìn Claymo chúng gài dưới xác anh, đem anh ra chôn dưới một gộp đá. Toàn tả tỉ mỉ địa điểm gộp đá cho tôi, mong rằng sau cuộc chiến này đứa nào sống thì đem anh về quê. . 
     Cho đến một buổi chiều, trên đường đi câu về tôi gặp một cậu học sinh đang đánh nhau với 3 thằng công nhân cầu đường. Cạnh đấy, một cô gái tay ôm ngực giữ mảnh áo bị rách khóc tức tưởi. Quẳng giỏ cá, tôi xông lại tính kéo cậu học trò ra thì một thằng nói: "chơi luôn thằng này". Vừa nói nó vừa vung tay đấm thẳng vào mặt tôi. Nghiêng đầu cho cú đấm trượt qua, tay phải tôi vuốt nhẹ, nắm cổ tay hắn, bước chân trái lên, xoay mình, dùng cạnh ngoài cẳng tay trái đánh mạnh lên phía trên gối tay phải hắn. Khi hắn gập mình vì tay bị khóa, tôi đá bằng mu bàn chân phải vào bụng hắn thay vì bằng ức bàn chân rồi tiện đà dùng gót bàn chân đập xuống bả vai thay vì đập vào gáy, đồng thời buông luôn cổ tay hắn. Nói thì dài nhưng thế đánh liên hoàn đó nhanh lắm. Khi đồng bọn bị tôi đánh ngã, 2 thằng còn lại cùng lúc nhảy vào, tôi rùn mình xuống, né cú đánh của chúng đồng thời tung ra cùng lúc hai cú đấm "song long xuất thế", cả 2 thằng ngã nhào.
     Khi cả 3 thằng mất dạy bỏ đi, nhìn mặt cậu học sinh bê bết máu, hỏi chuyện mới biết 3 thằng ôn dịch sàm sỡ cô gái, đi ngang qua cậu can ngăn thì bị chúng đánh và cậu đánh lại. Cậu ta nhìn tôi với ánh mắt thán phục:
     - Cảm ơn chú đã cứu giúp. Chú đánh hay quá, giá mà cháu biết võ như chú.
Tôi bảo cậu ta đi rửa mặt, không quên mục đích của mình, tôi hỏi cậu có biết gia đình anh Tính. Thật bất ngờ, cậu học sinh ấy là con anh Tính, đang học lớp 9 trường cấp III vừa học vừa làm Khe Đổ. Thế là từ đó, lúc rảnh tôi đến nhà anh Tính. Hoàn cảnh gia đình anh thật tội. Có việc gì tôi làm việc đó, rảnh rổi dạy võ cho cậu ta. Quân sáng dạ, học nhanh lắm, tôi dạy cậu cho đến tháng 4 năm 75 thì tôi ra quân và cũng lúc cậu ta nhập ngũ. Lẽ ra không phải nhập ngũ vì con liệt sĩ, nhưng cậu nài nỉ quá, chị Tính chiều con, xin mấy anh huyện đội, nên nó nhập ngũ, binh chủng đặc công. . .
    Mọi người đang nghe chuyện Quân thì Huy và Trọng Hói đi ca nô tấp vào.
     - Anh Tám Cá, cho nhậu với.
Ông Tám nói vọng ra: 
     - Vào đây. 
Còn ông Bường lẩm bẩm: " Rõ là, khách không mời mà đến còn tệ hơn giặc Tác ta".

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

Hai lối triền đê


                                                          Mượt mà xanh cỏ triền đê
                                                   Anh từng rình bước đi về của em,
                                                         Cánh diều ngưng gió chao nghiêng
                                                   Dòng sông lười biếng êm đềm nhẹ trôi. . .
                                                          Áo chiết eo, đỏ làn môi
                                                   Tóc mai đọng giọt mồ hôi nắng hè
                                                          Sáng trong đôi mắt chân quê 
                                                    Nụ cười em lạc lối về hồn anh

                                                          Thầm yêu  thuở tóc còn xanh
                                                    Đến khi đầu bạc vẫn đành. . . thầm yêu!
                                                          Triền đê vi vút sáo diều
                                                    Chiều nay chiều vẫn như chiều ngày xưa,
                                                          Cỏ may níu bước chân qua
                                                     Còn ta níu kỷ niệm xa ngậm ngùi.

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

LÂM TẶC

CHƯƠNG II

      Lâm tường Bình Minh cách sông Gâm chừng 2 km, bãi gỗ nằm cạnh suối Lồ nên việc chuyển gỗ ra bến sông rất thuận tiện. Man Hoa hái hơn kg nấm mèo từ mấy súc gỗ mục, những tai nấm cỡ miệng ly uống nước cô bỏ lại, "để cho lớn, trước sau gì mình cũng hái", cô nghĩ.
     Cạnh mấy khúc gỗ mục là gần trăm hộp gỗ xẻ dài ngắn dày mỏng đủ kiểu. Ông Bường vần hết hộp gỗ này đến hộp gỗ khác, vừa đo vừa ghi chép vào cuốn sổ học trò. Xong việc, ông gọi:
     - Man Hoa, cháu tính giùm khối lượng cho bác cái.
     - Cháu tưởng bác tính xong rồi chứ.
     - Bác chỉ đo chiều rộng, chiều dài, gáy của hộp gỗ là bao nhiêu thôi. Bác tính chậm lắm.
     - Vậy hồi trước ai tính cho bác?
     - Thì ông Trí, ông Minh chứ ai,  bác ghi rồi họ tính.
Cầm cuốn vở ông Bường đưa, Man Hoa hỏi:
     - Sao bác không ghi chủng loại gỗ?
     - Ông Minh nói không cần ghi.
     - Không ghi thì làm sao tính tiền cho thợ cưa? Xẻ gỗ sâng, gỗ sến giá cả khác gỗ chò, gỗ sao, xoan đào chứ?  
     - Ông Minh bảo sẽ tuyển dụng họ làm công nhân nên trả lương tháng.
Man Hoa nghĩ nếu tính như vậy thì lâm trường quản lý, báo cáo với tỉnh ra sao? Số gỗ này mới chỉ riêng nhóm anh Quân thôi, còn các nhóm khác nay mai đưa về nữa thì sẽ như thế nào nhỉ. Nhìn những hộp gỗ toàn lõi, mặt gỗ phẳng lì, mấy hôm nay phơi mưa phơi nắng, Man Hoa nói:
     - Thôi bác chịu khó ghi lại chủng loại gỗ. Cháu kéo mấy tấm phên nứa, lá cọ che đống gỗ. Để thế này vài hôm nữa rồi nứt nẻ, uổng quá thôi.
     Tiếp xúc với Quân chưa nhiều nhưng cô thấy ở anh có cái gì đó làm người ta tin tưởng được. Quân ít nói, không lém lỉnh như "đệ tử" Nam "cuội". Mấy ngày chưa vào lâm trường làm việc, ở nhà cô, mấy anh Chính, Ngọc, Nam, Dũng không trà lá tán gẫu thì đánh cờ, đánh bài tiến lên, còn anh Quân lôi sách ra đọc. Man Hoa cũng thích đọc sách nhưng không "nghiện" như anh Quân. "Một ngày không đọc được ba, bốn chục trang sách là thấy thiêu thiếu một cái gì đó", Man Hoa nhớ lại lời anh nói. Mới một tháng làm việc mà số lượng gỗ xẻ như nhóm anh Quân giao đúng là kỷ lục. . . 
     Bác Bường ghi xong nhóm gỗ, phụ Man Hoa che đống gỗ. Chiều nay anh Quân về sẽ thấy thành quả lao động của anh được bảo vệ, Man Hoa thấy vui vui. Xong công việc Man Hoa đưa bịch nấm mèo cho bác Bường:
     - Bác đem về phơi nhé.
     - Sao không mang về cho chú Tám?
     - Nhà cháu còn nhiều. Hôm nào rảnh cháu đi lấy măng cùng bác nhé?
     - Ừ! Chiều về cầm cặp gà cho chú Tám cùng đám thằng Quân nhậu.
     - Ôi, bác không biết thôi, cháu nuôi hơn năm chục con ở trại ấy, thôi chiều nay bác ra nhà cháu, thế nào cũng có cá, còn gà thì sẵn.
Ông Bường nghĩ Tám Cá thật là có phúc. Man Hoa vừa đẹp người, đẹp nết, việc chi cũng khéo léo, nhanh nhẹn. Nó mới về làm việc ở lâm trường mấy tháng mà coi bộ giám đốc Minh "chột" không ưa vì kỳ đà cản mũi từ việc lớn đến việc nhỏ. Nhẹ nhàng mà sâu sắc, chân thành mà nguyên tắc, đấu tranh đến nơi đến chốn. Ông thấy cái sai đó mà sao không nói rành rẽ được, với lại, còn nửa năm nữa là về hưu nên ông tắc lưỡi cho qua, nhiều lúc ông thấy xấu hổ vì không được như con bé. Ở cái tỉnh này, có bao nhiêu lâm trường là ông có mặt hết, ít nhất cũng hai năm. Riêng cái lâm trường Bình Minh này ông gắn bó với nó từ khi mới thành lập, tính đi tính lại cũng đã mười lăm năm, ba đời giám đốc. Trước khi bàn giao chức vụ giám đốc lại cho Minh "chột", lên tỉnh nhận nhiệm vụ mới, trong một bữa rượu chỉ hai anh em, ông Nghĩa nói: "Tôi lên tỉnh nhưng lòng không yên với lâm trường mình. Thằng Minh "chột" tham lam, liều lĩnh, thằng Trí "vịt" vừa tham vừa láu cá. Hai thằng này, anh biết đấy, con ông sáu cháu ông tư cả. Có việc gì chúng làm sai anh phải nói thẳng, cản không được thì viết thư cho tôi". . . Năm ngoái, khi bọn Tàu đánh sang Hà Giang, phần lớn công nhân bỏ về xuôi hết; thằng Trí "vịt", thằng Minh "chột" chạy đầu tiên. Bộ đội ta phản công, bọn Tàu rút, yên trở lại hơn tháng mới thấy mặt hai ông trong Ban gám đốc trở lại. Công việc đầu tiên của Minh "chột" và Trí "vịt" là bán hàng trăm khối gỗ tốt cho dân buôn bè Sơn Tây, Thái Bình. Tiếp sau đó hợp đồng nhân công lao động cho lâm trường không trả bằng tiền mà bằng sản phẩm, tức là trả bằng gỗ. Lập tức lâm trường có số nhân công hợp đồng gần trăm rưỡi người. Cả hai việc này ông viết thư cho ông Nghĩa. Ông Nghĩa báo cấp trên xin lập đoàn kiểm tra, dây dưa việc này việc nọ đến khi có quyết định đã hơn tháng. Trước khi đoàn kiểm tra lên hai ngày, số "công nhân" hợp đồng này xuôi bè hết. Không biết đoàn kiểm tra làm việc như thế nào, nửa buổi chiều lên lâm trường, tối nhậu với Ban Giám đốc một bữa, sáng hôm sau kéo nhau về thị xã. Hai ngày sau, Minh "chột", Trí "vịt" lên lâm trường mặt mày phởn phơ. Gặp ông, Trí "vịt" nháy mắt, cười đểu: "Anh Bường còn năm nữa nghỉ hưu nhỉ, mấy anh trên tỉnh nói nếu cần cho anh nghỉ ăn lương hẳn hòi, đến ngày lĩnh sổ hưu. Anh tuy không có chức tước gì nhưng đóng góp cho ngành quá nhiều mà". Còn Minh "chột" vứt tàn điếu thuốc Samit, nhổ bãi nước bọt: "Ốc không mang nổi mình ốc lại còn lo cọc rêu". Chừng nửa tháng sau Tám Cá nhắn người kêu ông ra nhà bè nhậu, đưa cho ông phong thư của anh Nghĩa. Anh Nghĩa xin lỗi ông vì không lột mặt được bọn Minh Chột, Trí Vịt. Anh nói đau ở chỗ kết luận của đoàn kiểm tra: "Vụ việc bán gỗ ở lâm trường Bình Minh là không có cơ sở. Số gỗ thất thoát là do lâm trường chạy giặc, không ai bảo quản nên mất trộm. Vụ việc trả lương bằng sản phẩm của Ban Giám đốc lâm trường là sáng tạo khi chưa được cấp đủ kinh phí hoạt động; số người hợp đồng được trả theo sổ sách và thực tế là 28 người; nay số công nhân đó đã tự ý bỏ việc vì quá khó khăn". . .. Sau kết luận của đoàn kiểm tra, anh Nghĩa "được" điều về làm phó chủ tịch mặt trận tỉnh. Anh viết trong thư: "Dù thế nào, ở cương vị nào cũng đừng từ bỏ con đường đã chọn anh Bường nhé". . . 
     Đang lúi húi cưa mấy ống bương để vào đất dâm mấy chục mầm lát hoa trong vườn ươm, ông giật mình khi nghe tiếng: "Chào anh Bường". Quay lại, thấy Huy, trạm trưởng trạm kiểm lâm sông Gâm, ông gật đầu, đứng dậy bắt tay.
     - Anh ươm giống lát này làm gì, ươm đã khó, trồng rồi chăm sóc cũng khó. Trồng sống được chí ít 50 năm mới khai thác được.
     - Thì công việc mà anh.
     - Thôi, nghỉ tay, hôm nay tôi và Trọng Hói được lời mời của ông Minh lên chơi. Ra đây, trước là để thăm anh, sau là chuyển lời của ông Trí mời ông vô phòng họp nhậu cùng.
     - Thật xin lỗi anh, chiều tối nay tôi có hẹn với chú Tám Cá rồi, anh nói lại anh Trí giùm tôi nhé.
     - Thì đành vậy, cho tôi gửi lời thăm anh Tám Cá, ngoài đó tàn cuộc sớm thì về nhậu tiếp nhé, kéo theo được anh Tám Cá càng vui.
     Huy bắt tay ông rồi trở về dãy nhà làm việc của Ban Giám đốc. Trước đây, khi anh Nghĩa còn làm giám đốc, Huy có đến lâm trường làm việc vài ba lần. Từ ngày anh Nghĩa lên tỉnh, Huy đến thường xuyên hơn. Linh tính như mách bảo ông hình như rồi sẽ có chuyện gì sắp xảy ra đây.

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

LÂM TẶC


CHƯƠNG I
     Một ngày tháng 4 năm 1980. Sông Lô nước cạn, chảy xiết. Con tàu chở khách đi Chiêm Hóa ì ạch ngược dòng.
     Phía trước mũi tàu, năm người đàn ông ngồi uống rượu. Đồ nhắm là mấy củ lạc sống. Man Hoa ngạc nhiên khi một người đàn ông bận bộ đồ quân phục bạc phếch, hai tay đưa bát rượu mời một chàng trai độ hai ba hai bốn tuổi.
     - Mời đại ca. Mẹ kiếp, sao hôm nay đại ca buồn thế, hay nhớ con bé chủ quán trọ đêm qua?
     - Mày có câm cái mồm đi không, thằng Chính. Gần bốn mươi tuổi đầu mà ngu như bò. Một người đàn ông có bộ râu quai nón lên tiếng. Chàng trai cầm bát rượu uống cạn một hơi, nhìn người đàn ông râu quai nón nói:
     - Anh Ngọc, anh Chính uống ít thôi, rượu không có mồi hại dạ dày lắm. Với lại, mình ra mắt chú Tám Cá với bộ mặt sần sần coi không tiện.
     Lạ quá, người thanh niên nhắc tới tên Tám Cá có phải là nói tới cha cô không nhỉ. Hôm qua ông bảo cô xuôi Tuyên Quang mua mấy tấm lưới dậu 6, cây thuốc chữ A đỏ để hôm nay ông tiếp khách? Mải vẩn vơ suy nghĩ Man Hoa giật mình khi mũi tàu trườn lên doi cát ngầm rồi dừng lại. Tài công đạp hết ga con tàu vẫn không nhúc nhích.
     - Đừng đạp ga nữa, anh muốn ngủ đêm ở đây à. Chàng trai "đại ca" hét lớn. Nói rồi chàng trai vọt tới buồng lái.
     - Anh mà đạp ga chân vịt bị cát trói đấy. Bây giờ anh quay vô lăng hết cỡ sang bên phải, khi không quay được nữa thì đạp hết ga.
     - Cậu biết lái à? Người lái tàu hỏi.
     - Tôi biết qua sách. Anh làm nhanh đi, chậm là mắc cạn ngay đấy.
Tài công làm đúng lời chàng trai, con tàu rùng mình, đuôi từ từ lấn về bên trái, đuôi càng lấn về bên trái con tàu càng nghiêng về bên phải. Hành khách hoảng loạn chạy nháo nhào trên boong tàu: "Coi chừng tàu lật". Tiếng lật chưa dứt hơn chục người té nhào phía bên phải, có người suýt rơi xuống nước. Thì ra, đuôi tàu lấn sang trái, con tàu gần như vuông góc với dòng chảy, thành con đập. Cát giữ tàu, nước xô tàu. sau vài phút cầm cự, nước thắng cát, đẩy con tàu ra khỏi doi cát. Đang nghiêng bên phải vì cát, bị nước đẩy, hổng bậc, con tàu trước khi lấy lại thăng bằng, theo quán tính chao nghiêng sang phía bên trái bất ngờ quá nên nhiều người ngã chỏng gọng. Lúc này, tiếng cười, tiếng nói rộn lên cả khúc sông. Người nói thành lời, người bằng ánh mắt cảm ơn hướng về chàng trai trẻ.
     Khi con tàu ung dung trong lạch, trao lái cho tài phụ, anh tài công bước ra khỏi ca bin, bắt tay chàng trai:
     - Cậu giỏi quá, cảm ơn nhiều. Không có cậu thì hành khách phải ngủ đói đêm nay rồi. Tối nay uống với tớ một bữa nhé.
     - Cảm ơn anh, tôi xuống dọc đường chứ không lên Chiêm Hóa. Anh có biết nhà bè chú Tám Cá ở đoạn nào không?
     - Chừng tiếng nữa là tới. Nhà bè anh Tám Cá bọn tớ ghé luôn. Có bữa tớ ở lại nhậu với ổng, hôm sau tàu xuôi ghé vào rước.
     - À mà cậu tên gì? Sao biết anh Tám Cá? Thôi thế này vậy, tối nay tôi ở lại uống với cậu một chầu. Hồi sáng thấy cậu uống có mã quá.
     - Tôi tên Quân. Chú Tám Cá là sư phụ của tôi.
     - Hèn gì! Không hổ danh đệ tử Tám Cá.
     Hóa ra anh chàng thanh niên ấy tên là Quân, người mà Man Hoa nghe cha "dọa" gả. Có lẽ Quân cao gần mét bảy, ngực nở, dáng rất đàn ông. Khuôn mặt chàng đẹp, môi đỏ, mũi thẳng, mắt sáng, đôi lông mày mượt đen xếch lên nên nhìn thoáng qua có vẻ lạnh lùng. "Không biết đã bao nhiêu cô gái "chết" vì anh ta", Man Hoa thầm nghĩ. Thì đấy, mới một đêm ở trọ mà cô chủ quán trọ có ý tứ gì mà anh Chính cùng đi nói lúc nãy đó thôi. . .
     Một hồi còi tàu vang lên, ông Tám Cá đứng đầu nhà bè ra hiệu cho tài công. Sóng con tàu làm làm nhà bè vốn đã dập dềnh càng dập dềnh hơn. Tàu chưa dừng hẳn, Quân đã nhảy xuống, ôm lấy ông:
     - Sư phụ. Con nhớ sư phụ quá.
Ôm Tám Cá nắm chặt vai Quân đẩy ra, nhìn từ đầu đến chân, cười:
     - Được lắm, rắn rỏi hẳn lên.
     Chiều tối hôm đó, ông Tám Cá đãi Quân cùng đám đệ tử và tài công cá rầm xanh lam trong ống nứa, canh măng đắng và thịt mang nướng. Gần tàn bữa rượu, Man Hoa mang lên mấy ống cơm nếp lam. Cô chẻ ống nứa gọn gàng, khéo léo tước từng thanh nứa. Mùi cơm nếp thơm ngào ngạt. Chính cứ hít hà: "Thơm quá, thơm quá". Thỏi cơm trắng được bọc trong màng nứa mỏng, dẻo, ngọt và ngầy ngậy béo. Gắp miếng cá rầm xanh bỏ vào bát Quân, Thuộc - tài công tàu khách, bảo:
     - Cá rầm xanh dưới Việt Trì cũng có, nhưng ngon nhất vẫn là đoạn ngã ba sông Gâm đổ vào sông Lô trở lên. Các chú ở qua mùa lũ chắc thế nào cũng được thưởng thức cá quất, có duyên thì được ăn cá anh vũ, phải không anh Tám? Rít một hơi thuốc, ông Tám Cá nói:
     - Ở Họng Bọt còn hai đàn anh vũ, mỗi đàn hơn hai chục con. Khi nào bắt, tao để dành cho bà cụ mày một con.
     - Anh nói chuyện chim trời cá nước cứ như chim trong lồng, cá rộng trong lu vậy.
     - Mày thấy tao sai hứa lúc nào chưa?
     - Chưa.
     - Chim thì không dám nói, chứ cá tao nói là có, có như vậy tao mới phải gánh thêm cái biệt danh là "cá" chứ. Thấy cha lắc lắc bầu rượu, Man Hoa vào bếp lấy thêm một bầu. Cầm bầu rượu, ông nói:
     - Con lên trại ngủ. bát chén mai rửa cũng được.
     Man Hoa cúi đầu chào mọi người, miệng hơi hé cười rồi bước lên cầu dẫn. Quân nhìn theo, cầu dẫn bập bềnh theo nhịp nhà bè nhưng cô bước nhẹ nhàng, khoan thai như đi trên đất bằng vậy.

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Chuyện vui câu đối nghề giáo

     Trong đời sống văn hóa, nói về câu đối có câu đối tết, có câu đối trang nghiêm, thành kính nói chí hướng hay tổng kết cuộc đời oanh liệt của nhân vật lịch sử, thường được khắc ghi, chạm trổ, treo trang trọng hai bên bàn thờ, chẳng hạn câu đối ở đền Quan Vũ: "Sinh Bồ Châu, trưởng Giải Châu, trấn Kinh Châu, chiến Từ Châu, vạn cổ thần châu hiển hách / Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, thích Mạnh Đức, cầm Bàng Đức, thiên thu trí đức vô song"; cũng có câu đối răn đời, tiếu lâm, không sơn son thếp vàng nhưng sống mãi với thời gian qua truyền khẩu, ví như câu đối của thầy đồ đáp lại lời mai mỉa của ông vạn chài: "- Chữ nghĩa văn chương không bằng xương con cá lẹp / - Khéo chài khéo lái không bằng hòn dái học trò".
     Có thầy giáo, bạn nhà thơ Đồ Phồn, gợi ý ông viết bài thơ về Vũ trọng Phụng, một tác giả cả hai mến mộ. Đồ Phồn không có tài làm thơ tả chân dung nhân vật như Tố Hữu, nên ông viết câu đối. Thầy cô giáo khi dạy về tác gia Vũ Trọng Phụng có thể đọc cho học sinh nghe: 
     - Cạm bẫy người, tạo hóa khéo giăng chi? Qua Giông tố tưởng nên người Số đỏ.
     - Số độc đắc văn chương trúng thế ? Nỡ Dứt tình, Không một tiếng vang!
     Vào đầu thập niên 80 thế kỷ trước, ông Nguyễn Tài Đại, Trưởng ty Giáo dục Nghệ An phân công giáo viên lên giảng dạy ở các huyện miền núi rất khó khăn, trong đó có huyện Tân Kỳ. Trăn trở mãi về việc này, ông nảy ra một vế đối: 
     - Ty cần thì đi Tân Kỳ.
Rồi ông nói đùa rằng ai trong số những người phải đi Tân Kỳ đối được thì ông bố trí nơi khác. Một cô giáo trẻ "liều mạng":
     - Ai động gì đến ông Đại!
Vế đối khá hay nhưng "phạm thượng", nghe cô trình bày hoàn cảnh, ông Trưởng ty đành phải giữ lời hứa, cho dù ông  nói đùa.
     Cũng khoảng thời gian ấy, ngành giáo khổ quá, hai chữ "Sư phạm" được dân gian chiết tự ra "ăn sư ở phạm", nghĩa là ăn như nhà tu hành (sư), ở như tù nhân (phạm). Vì vậy mới có câu đối:
     - Thầy giáo tháo giày đi dép lốp.
     - Nhà trường nhường trà uống nước trong.
Sau này, câu đối đó được "phát triển" lên, vế ra là của một cán bộ giảng dạy trường ĐHSP Vinh, vế đối là của GS Văn Như Cương. Nói về GS Văn Như Cương có khá nhiều giai thoại, ông là người tài hoa, uyên thâm nhiều lĩnh vực, vì thế sinh viên tôn vinh ông bằng một vế ra mà cho tới hiện nay tôi chưa được nghe vế đối: "Văn Như Cương, Toán như Cương, Lý như Cương, Hóa vừa nhu vừa Cương!". 
     Từ Hà Nội về lại Trường ĐHSP Vinh thỉnh giảng, GS nhận được vế ra câu đối từ một cán bộ giảng dạy:
     - Thầy giáo tháo giày, tháo cả ủng - thủng cả áo, lấy giáo án dán áo.
Vế ra hay quá, GS nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra vế đối, toàn là nói lái mà khoa ngữ một chút về nghề giáo lúc bấy giờ. Cho đến lúc trở ra Hà Nội, qua Quỳnh Lưu, không biết địa danh có gợi ý cho GS hay không mà ông đối được vế ra, khá chỉnh, nhưng cũng theo ông vẫn chưa hay so với vế ra:
     - Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa - nhòa cả hương, ôm lương hưu lưu hương.
     Từ xưa, cha ông ta đã có  câu "Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò". Có lẽ buồn vì học trò, bức bối với xã hội, nên khi làm Đốc học ở Mỹ Lương, Cao Bá Quát viết câu đối, đọc nghe tức cười nhưng khó hiểu hết ẩn ý trong đó:
     - Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái.
     - Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
     Cũng có những câu đối, vế ra có thể có nhiều vế đối, không biết có chủ quan không, tôi thấy câu đối dạng này thường có "phong cách" Hồ Xuân Hương. . . Câu chuyện sau đây là một ví dụ:
     Chuyện kể rằng có thầy giáo bộ môn Sinh vật (bây giờ đổi là Sinh học rồi), chăm vợ sinh. Công việc quạt than, giặt giũ vừa xong thì anh bạn học thời phổ thông làm nghề buôn bán đến rủ đi uống cafe. Chủ quán cafe cũng là bạn học nên chuyện trò khá rôm rả. Chuyện trò một lúc, đề tài chuyển sang câu đối lúc nào không hay, anh bạn tiểu thương khởi xướng:
     - Tớ ra câu đối, hai cậu đối được thì trưa nay tớ chịu một chầu nhậu tới bến, còn không ngược lại nghe. Không cần biết hai ông bạn có đồng ý hay không, nháy mắt với chủ quán cafe, anh ta đọc:
     - Thầy Sinh vật vật cô Sinh vật, vật rồi lại sinh, sinh rồi lại vật.
Bị 'chơi khăm", nhưng may anh bạn làm nghề buôn bán nhỏ, nên thầy đối lại cũng bằng cái "logic" ấy, có điều "độc" hơn:
     - Anh tiểu thương lấy chị tiểu thương, thương vào chỗ tiểu, tiểu vào chỗ thương.
Tất cả cười xòa, chủ quán cafe hưởng ứng:
     - Anh cafe ôm chị cafe, cà rồi lại phê, phê rồi lại cà.
Có ông khách cafe một mình, qua giọng nói biết là người xứ Hà Nam Ninh, thấy vui quá, xin được tham gia:
     - Anh chồng chọt (trồng trọt) lấy chị chồng chọt, chọt rồi lại chồng, chồng rồi lại chọt..
Không biết ông khách có được mời nhậu trưa đó không, nhân chuyện đối đáp ở quán, kể luôn chuyện đầu thập niên 20 thế kỷ trước.
     Ở Cầu Cậy, có một cô hàng nước độ tuổi mười bảy, mười tám, con nhà khá giả, xinh đẹp vô cùng. Có lẽ vì xinh đẹp, khá giả mà từ kiêu hãnh quá hóa kiêu căng chăng? Cô thường chê bai trai làng ít học, quê mùa. Có chút chữ nghĩa, học đòi người xưa, cô viết vế đối, treo ở quán, nói với trai làng có đối được thì đem cau trầu đến hỏi cô, đừng đến tán vớ va vớ vẫn. Vế thách đối của cô là:
     - Con gái Cầu Cậy má đỏ hồng hồng, muốn đi lấy chồng để mà trông cậy.
Cầu Cậy là địa danh, cậy còn là một loại cây có quả như quả hồng nhưng nhỏ hơn, chữ cậy cuối vế ra lại có nghĩa là nhờ. Trai làng không ai đối đươc, "ức" lắm. Có chàng trai quyết cưới cô cho "bõ tức", bèn sang huyện bên, nhờ một ông đồ hay chữ chỉ bảo. Nghe chuyện, thầy đồ hứa là chỉ làm cho cô gái gỡ vế đối xuống thôi, còn anh có cưới được cô hay không là phải do tài năng của chính mình. 
     Đúng hẹn, thầy đồ trong vai một ông lão bán mây, vào quán cô uống nước khi bọn trai làng tụ tập đông đủ. Ông đọc vế đối khen hay về ý tứ, chữ viết đẹp. . .đẹp như cô chủ. Nghe giọng điệu ông không khác đám trai làng, cô bực mình:
     - Khen làm gì, ông có đối được không?
     - Tôi đối được thì sao?
     - Thì mang trầu cau đến nhà cha mẹ tôi hỏi tôi làm vợ. Tôi là con gái nhưng "Nhất ngôn cửu đỉnh tứ mã nan truy".
     - Tôi không tốn tiền trầu cau để hỏi người kiêu ngạo, đối được, chỉ cần cô cất vế đối. Vế đối của tôi cô nghe cho rõ nhá:
     - Ông lão hàng mây da xanh mai mái, thích chơi con gái sướng tràn cung mây.
Bọn trai làng vỗ tay cười như chưa bao giờ được cười, mặt cô chủ quán đỏ rực chứ không phải "má đỏ hồng hồng', bỏ cả quán xá; và sau đấy không lâu cô trở thành vợ anh chàng mượn thầy đồ huyện bên "trị" cô.
     Chuyện câu đối về nghiệp giáo có hơi tếu táo, vui một tý, giải được chút stret nào hay chút ấy. Nếu cứ "mô phạm", "khuôn mẫu" suốt năm tháng e rằng chúng ta tự lão hóa tâm hồn mình lúc nào không hay.

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Chuyện nghề giáo

Thời gian trôi thật nhanh, đã hơn 30 năm xa mái trường Đại học Sư phạm Vinh, về công tác ở Phú Yên, biết bao kỷ niệm vui, buồn.Bạn bè cũ gặp lại đều đặt câu hỏi: "Tại sao chúng mày ở đấy lâu đến thế?".
     Ngày mới ra trường, theo quyết định của Bộ, vợ chồng tôi được phân công về tỉnh Phú Khánh. Tôi có dì ở Nha Trang cũng làm nghề dạy học, dượng là sĩ quan Không quân; dì dượng nhường cho vợ chồng tôi một căn phòng: "hai cháu công tác ở đây muốn ăn chung ăn riêng gì cũng được". Ngặt một nỗi Sở Giáo dục không bố trí hai vợ chồng tôi cùng một trường ở Nha Trang được vì cùng bộ môn, mà vợ tôi lại muốn thế. Chờ đợi chán rồi ra Xuân Lộc, tới một ngôi trường mà đọc theo quyết định thành lập cũng thấy buồn cười: "Trường cấp II Xuân Lộc có nhô thêm một số lớp cấp III".
     Trường nằm trên vùng cát trắng, không rào bảo vệ, xưa kia là bãi rác của tiểu đoàn lính Nam Hàn đóng tại núi Chùa. Trong khuôn viên trường có tới 36 ngôi mộ.
     Ngày trước về trường, hôm sau ra chợ mua đồ ăn sáng, vợ tôi tính mua thêm mấy cái xoong nồi chén bát thì nhớ ra để quên tiền ở nhà. Chị Lan Đặng (Đặng là tên chồng) nói: "Thầy cô lấy gì cứ lấy, khi nào trả cũng được". Điều ngạc nhiên nhất là lần đầu tiên xuất hiện ở chợ mới sau một đêm ở Xuân Lộc mà sao chị ấy lại biết vợ chồng tôi là giáo viên. Điều ngạc nhiên tiếp theo là không quen biết sao lại bán chịu? Trong đời tôi kỷ niệm ngày đi chợ ấy không bao giờ quên. Ấn tượng đầu tiên với tôi con người ở đây tốt quá, chân thật quá!
     Sau này tôi mới biết chị có con học ở trường tôi dạy, bọn trẻ về kể cho chị hay. Trước khi chúng tôi về, học trò chỉ học các môn tự nhiên, còn các môn xã hội chưa được học vì không có giáo viên. Tôi được phân công dạy Văn một lớp 10 và dạy tát tần tật các môn Sử, Địa, Chính trị toàn khối cấp III, lại thêm chức vụ Phó Bí thư Đoàn Trường và kiêm luôn phụ trách lao động. Mới ở lính về nên hiệu trưởng giao việc gì cũng nhận.
     Ở trường tôi, mỗi tuần lao động một buổi, công việc chủ yếu là lấy đất thịt ở Gò Ốc hay trên xóm Đũi đổ sân vận động. Thầy cô giáo chủ nhiệm phải theo lớp hướng dẫn lấy đất, kèm cặp học sinh tránh tai nạn. Một hôm, tôi đang nghiệm thu lao động chợt thấy cô Vân, giáo viên tiếng Anh, chủ nhiệm lớp 8A đạp xe chạy như bay vào khu tập thể, vội vã vào phòng rồi đóng kín cửa lại. Lớp cô còn một chuyến nữa mới xong kia mà, không biết có chuyện gì nhỉ? Lát sau có bốn em học sinh lớp 8A chở đất đến đổ, tôi bảo các em vào kêu cô Vân ra ký biên bản nghiệm thu. Cô Vân không ra, bảo học sinh nhắn lại với tôi là cô bị mệt.
     Chuyện rồi cũng qua, năm năm sau, dịp 20 tháng 11, Tọa đàm "Về những kỷ niệm nghề giáo", cô Vân kể: "Hồi ấy, tôi chủ nhiệm lớp 8A, một buổi lao động đi lấy đất đổ sân banh, đến trưa, trên đường về, nắng, khát nước, mệt; có hai em học sinh nói với tôi: "Cô có ăn mía không?', tôi hỏi: "Mía ở đâu?". Một em chỉ tay vào đám mía cách đường độ 100 m, nói: "Mía nhà em đó, cô chờ nhé". Nói rồi hai cậu học sinh vào vườn bẻ mía. Tôi đang chờ các em mang mía ra thì bỗng thấy hai em học sinh vừa chạy vừa la: "Cô ơi chạy đi", đằng sau hai đứa là là một ông già đuổi theo : "Bắt lại, đồ ăn trộm...". Tôi vội vàng nhảy lên xe đạp, chay về trường trốn, không dám ra ký biên bản nghiệm thu lao động, sợ ông già đuổi đến thấy thì gay". Nghe cô Vân kể, không ai nhịn được cười. Thầy Quốc "phê bình":
     - Cô Vân không phải là "hảo hán", lúc nguy nan bỏ bạn bỏ bè.
     Tết năm đầu tiên ở lại trường, buồn vô kể. Không có học sinh trường trở nên hoang vu, vắng lặng. Chiều 30 tết, anh Bắc - Hiệu trưởng nhà trường ra thăm vợ chồng tôi, đem cho chúng tôi một gói bánh sâm panh do chị Hồng, vợ anh làm. Anh động viên chúng tôi, chia sẻ sự thiếu thốn tình cảm. Những lời động viên ấy tôi không bao giờ quên. Trên đời này, cảm thông, chia sẻ, động viên đúng lúc là cách thu phục nhân tâm hiệu quả nhất. Những người làm được điều ấy chắc chắn thành công trong cuộc sống, bởi xung quanh họ sẽ là một khối đoàn kết, thân ái.
     Khi anh Bắc ra về thì có hai em học sinh lớp 11 đến trực trường, đó là Ngô Lộc Thạnh, lớp trưởng và Nguyễn Lê Tuấn, lớp phó lao động. Chờ cho anh Bắc ra khỏi cổng trường, Tuấn vào phòng tôi hỏi:
     - Thưa thầy, thầy có kiêng ăn thịt vịt không?
     - Thịt vịt thì có gì phải kiêng hả em. Nghe tôi nói vậy, Tuấn gọi Thạnh:
     - Đưa vào đây.
Thì ra, ba má Thạnh gửi cho thầy cô con vịt luộc để ăn chiều 30 tết cho vui. Các em đưa đến nhưng sợ thầy cô kiêng cữ. Bữa cơm tất niên  hôm ấy, có các em chúng tôi cũng đỡ chạnh lòng. Đến giao thừa, khi nghe tiếng pháo nổ rộ, không có pháo để đốt, Thạnh đánh trống, Tuấn đánh kẻng (trường tôi có trống nhưng hiệu lệnh giờ dạy bằng kẻng). Hôm sau, Tuấn nói với tôi: "Em đánh kẻng một chút mà giờ tai vẫn ong ong, phục bác Ba Đạt thật". Bác Ba là bảo vệ kiêm trực kẻng. Hiệu lệnh của bác cứ gọi là chính xác như máy.
     Mùng 3 tết, mới khoảng hơn 5 giờ một chút, tôi mới vừa vệ sinh sáng xong thì có phụ huynh tới thăm, đó là ông Phạm Xuân Lai ở Hòa Lợi, ba của em Phạm Xuân Thời. Vợ tôi chế nước trà, mang lên dĩa bánh tét chiên để hai chú cháu ăn. Ông bảo vợ tôi cất bánh, nói đã ăn sáng rồi. Ông nói chuyện thời sự Đông Âu, Trung Quốc rồi chuyện địa phương. Khoảng 10 giờ, anh Bắc ghé tôi chơi, ông mừng lắm: "Thầy Bắc ngồi uống trà nói chuyện chơi, tôi chưa vào thầy được, phải ưu tiên thăm thầy cô giáo xa nhà trước". Anh Bắc uống một ly trà, cười cười: " Anh ở chơi với thầy cô, tôi đảo qua trường một tý rồi đi gặp ông Hở, đặt mấy dây đòn tay, mai mốt xây thêm phòng học". Anh Bắc đi, ông hỏi tôi dạy môn gì, tết có làm thơ xuân không. . . rồi ông đọc, ngâm và giảng giải cho tôi ý tứ bài thơ của ông. Khi ông ra về đã hơn 3 giờ chiều. Tôi đói toát mồ hôi nhớt. Hậu, cô học sinh đến chơi với vợ tôi nói: " Thầy cũng thật là, cứ kệ ông ta, đói, mời ông không ăn thì mình cứ ăn chứ". Hôm sau anh Bắc thấy tôi là cười liền: " Hôm qua Thắng dính chưởng phải không, có được năm tiếng không?". Tôi nói: " Hôm nay ông vào nhà anh đấy.". Anh lại cười: "Biết vậy mình mới không ở nhà, tính ra đây rủ Thắng đi chơi tết. Biệt danh của ông là "Lai Tràng Khang", nhớ kỹ nhé". 
     Thời gian trôi đi, lớp học trò dễ thương như những ngày đầu chúng tôi vào nghề hiếm dần. Chuyện quậy của học trò trường nào cũng có. Trường tôi học trò quậy nhưng chưa tới mức "điển hình". Anh Mười, bạn tôi, dạy ở trường HVT kể: " Có hôm tôi dạy hai tiết liền. Đến nửa tiết sau thấy có đứa học trò gục lên bàn ngủ, tôi xuống thì thấy dưới gầm bàn có mấy miếng lòng heo luộc trong một bịch ni lông, một gói muối tiêu, một bịch rượu có ống hút. Thì ra, khi tôi quay mặt xuống lớp giảng bài thì chúng nó ngồi im, khi quay mặt vào bảng vẽ hình, ghi lời giải thì chúng nó nhậu, thật hết biết! . . ."
     Tôi hỏi: "Sao mấy đứa ngồi bàn bên không báo?". Anh trả lời: "Ông cứ như người trên trời rơi xuống. Bạn nó làm sai, hỏi cả trăm đứa như một đều trả lời: "Em không biết" mặc dù chúng nó biết mười mươi. Học trò bây giờ là thế đấy!"
     Còn ở trường dân lập DT, anh Nguyễn Cấp kể: "Hôm tôi vào lớp dạy khi quay mặt vào bảng thì nghe tiếng thùng thùng thùng thùng. Quái lạ, sao trường cho tập văn nghệ vào giờ này. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại. Hình như tiếng ồn ở trong lớp. Bất ngờ tôi quay xuống thì thấy học trò hai bàn cuối đang nắm tay đánh vào mặt bàn. Tôi ôn tồn: "Em nào không thích học tiết này thầy cho ra chơi, đừng làm ảnh hưởng tới bạn khác." Lập tức cả hai bàn cuối kéo nhau ra. Lớp yên ổnđược chừng hai chục phút thì chúng lại kéo nhau vào: "Bên ngoài quán đóng cửa hết rồi thầy ạ".
     "Đành chịu thôi, ai bảo thỉnh giảng làm gì, ham cải thiện đời sống làm gì" - Anh nói tiếp: " Mấy tháng đầu, khi trường mới khánh thành, quán xá mọc lên xung quanh trường quá nhiều, học sinh trốn học ngồi quán không biết bao nhiêu mà kể. Dần dần, quán xá dẹp bớt, rồi đóng cửa hẳn. Tôi nghĩ phục ông hiệu trưởng không biết làm cách gì mà giỏi thế. Sau này, hỏi người bà con cũng làm  quán bán ở đó mới biết là ông hiệu trưởng có nói gì đâu, chính quyền có nói gì đâu, học sinh ăn uống ở quán mười đứa ăn ba đứa trả tiền, rồi nợ, rồi chúng nó đánh nhau. . . Tính ra, người bà con tôi bỏ ra hơn 20 chục triệu, bán được một tháng rồi phải dẹp, mất trắng cả vốn chứ nói chi lãi. . .
     Khi đang viết đến đây tôi nghe tiếng cô bưu tá gọi: "Thầy ơi ra ký nhận bưu phẩm". Bưu phẩm của tôi là ba cuốn sách của ba em học sinh khác nhau nhưng gửi chung. Cuốn "Không thể chuộc lỗi" là của Lâm - cậu học sinh bị tôi xử lý kỷ luật hai lần, giờ đã là Giám đốc chi nhánh của một công ty nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn "Ký ức không quên là của Tuyết, cô học sinh giỏi Văn năm nào, nghe đâu hiện nay là trưởng phòng nào đó của nhà xuất bản Ngoại văn. Còn trong cuốn "Cánh bướm và hoa hướng dương" có tờ giấy, chữ của Tuyết ghi: " Bạn Minh nhờ em gửi tặng thầy cuốn sách, bạn ấy nói dù đang sống ở Mĩ nhưng  như tên cuốn sách, luôn hướng về Tổ Quốc như hoa hướng dương hướng về mặt trời".
     Còn nhiều lắm chuyện vui buồn nghề giáo, định viết tiếp nhưng lại có trò cũ đến thăm, hẹn với blog dịp sau vậy.

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Hương cốm



Trời xanh như hạt cốm
Em gói vào lá sen
Nắng vàng như mật ngọt
Trái hồng chín dần lên.

Gió heo may se tóc 
 Hương đồng đậu vai em
Tim tím trời trong mắt
Bảng lãng chiều không tên.

Ai đi xa để nhớ
Nửa vầng trăng chao nghiêng
Anh về đếm lá rụng
Hương cốm nhòa trong đêm!
 

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Ta muốn . . .

     Ta muốn nghe
     Dịu êm môi em
     Để rồi một ngày
     Vui bước thần tiên
     Rong chơi vườn cấm.
          Ta muốn thấy
          Trong sáng dịu hiền
          Đôi mắt em
          Dành cho ta
          Nồng ấm thiết tha.
               Ta muốn cầm
               Bàn tay em
               Mượt mềm như lúa
               Dịu êm như mây
               Đi suốt đời này
               Mãi trong đắm say.
                    Ta muốn ôm
                    Bờ vai em
                    Nghe con tim
                    Hát ru
                    Cuộc đời bình yên!

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

CHUYỆN NGU

Chuyện trò với bạn bè ai cũng tỏ ra thông minh, trác việt, chẳng mấy ai nhận mình là ngu cả. Thế mà chơi với anh Tuấn riết rồi cũng nhiễm cái tính của anh, toàn thích nói chuyện ngu của mình, của người đời.
     Hôm rồi, anh đến chơi nhà, thấy tôi đọc báo mạng đăng tin Hoàng Thùy Linh sex trên sân khấu, anh nói:
     - Mấy thằng viết báo sao ngu thế không biết, lăng xê cho mấy con mất nết không công. Nó biểu diễn ở Hà Nội giỏi lắm năm bảy trăm người biết, nay đưa lên mạng thì năm bảy triệu người biết; để rồi khi chúng nó đi biểu diễn nơi này, nơi khác, bọn nhóc tuổi ten kéo nhau đi xem, vì tò mò, vì là fan. . .mà thằng duyệt đăng cũng ngu nốt, làm báo như vậy, tuyên truyền như thế còn lâu xã hội mới văn minh!
     Anh nói đúng, lâu nay đọc báo mạng, số nào cũng cũng đưa tin, hình ảnh với ngoa ngữ "bỏng mắt", "sốc" với 3 vòng của ca sĩ, người mẫu, vợ, bạn gái cầu thủ X, Y, Z mà mình không nghĩ ra nhỉ. Đúng ngu!
     - Vậy có khi nào anh thấy mình ngu không?
     - Không ngu sao làm đầy tớ thiên hạ. Ngu toàn tập.
     - Anh mà ngu toàn tập thì tôi ngu toàn diện.
     - Khôn nghề "xây dựng" là khôn dại / Dại chốn văn chương ấy dại khôn. Cái dại, cái ngu của ông là ở chốn văn chương. Văn ông dở thì không có độc giả, còn công trình mà dở thì hại người rồi nó sẽ hại mình. Mỗi công trình của tôi phải qua vài ba năm bảo hành không hề hấn gì mới thở phào được một cái, còn trong thời gian bảo hành thì "sống trong sợ hãi". Công trình này tiếp công trình khác, ông nghĩ sướng lắm hả?
     - Biết thế sao anh cũng làm?
     - Cái nghiệp rồi, trả chưa hết. Anh nói.
     Thực ra, anh làm hết công trình này gối đầu công trình khác là do uy tín. Hơn nữa, đã nhận làm, dù khó khăn đến đâu anh vẫn vui vẻ. Anh tới đâu là là nghe tiếng công nhân cười ở đấy. Tò mò, hỏi, anh nói:
     - Mình kể chuyện mình ngu hay pha trò một chút, mình mà có năng khiếu kể chuyện tiếu lâm như ông thì giàu to.
     - Tiếu lâm có liên quan gì ở đây, anh nói rõ xem.
     - Thì tiếng cười làm công nhân quên mệt mỏi, năng suất lao động cao hơn; mình và công nhân dễ gần gũi, thông cảm với nhau hơn.
     Nghe anh gải thích, tôi nhớ cái lần cùng anh đi thăm công trình. Có ba cô phụ hồ và hai anh thợ "gải lao" hơi lâu. Khi chúng tôi đến họ đang xòe tay coi tướng cho nhau. "Đường đời của mày dài, sống lâu lắm...". Thấy anh, cả nhóm định đứng dậy. Anh nói:
     - Cứ xem chỉ tay tiếp đi. Tôi nghe nói có cách xem thọ, yểu còn chính xác hơn chỉ tay kia.
     - Cách nào ạ? Một cô mạnh bảo hỏi.
     - Tôi nghe nói thời Hán, Đông Phương Sóc gỏi coi tướng số. Có lần, các quan đang chờ buổi chầu sớm, không có việc gì nên xem tướng cho nhau, bình phẩm nhân trung ông này dài, dái tai ông nọ phật. Đông Phương Sóc nói: " Người nào xương cụt mọc chỉa vô là thọ". Nghe nói thế, các quan đầu triều thọc tay vào tà áo thụng phía sau lưng. Một lát, Đông Phương Sóc lại nói: " Người nào có 32 cái răng trở lên là thọ". Thế rồi các quan lại đưa tay vào miệng để đếm răng. Đấy, các cô kiểm tra xem có đúng không.
     Tôi không nhịn được cười, nghĩ quan đầu triều sao mà ngu thế không biết, bị Đông Phương Sóc chơi xỏ. Mấy cô cậu công nhân cười như nắc nẻ rồi đứng dậy đi làm. Chứng kiến chuyện ấy, tôi phục cách xử lý của anh, và tôi tin những cô cậu ấy sau này không "gải lao" quá đà nữa. 
     Mải nghĩ chuyện cũ, cười một mình. Anh hỏi:
     - Cười gì thế?
     - Cười cái ngu của tôi.
     - Kể xem.
Tôi đành kể một câu chuyện có thật "trăm phần trăm":
      Hồi còn học ở Vinh, có lần giữa trưa mùa hè, có việc, tôi phải đạp xe đi Nam Đàn. Đến cầu Mượu, nắng quá, tôi vào cái quán ven đường uống nước. Trong quán có hai người khách. Người đàn ông nhỏ con nhưng nhìn khuôn mặt khá lanh lợi. Còn cô gái xinh xắn, hơi "múp". Thấy tôi vào uống nước, người đàn ông mời tôi điếu thuốc lá Đồ Sơn:
     - Tôi đi Nam Đàn, o ni (cô này) xin theo. Chở o từ chợ Vinh lên đây tôi mệt quá. Cùng đường, anh cho o ni đi nhờ nhá!
Tôi nhìn cô, cô nhìn xuống đất, hai má đỏ lựng, miệng hơi cười cười.
     - Được thôi, nếu cô muốn.
Thế rồi tôi chở cô. tưởng rằng sẽ tán chuyện cho vui nhưng rồi nắng quá, lại thêm ngược gió lào; được chừng cây số tôi đã ngậm miệng; đầu, mặt , lưng, chân đổ mồ hôi hòn mồ hôi cục. Người đàn ông đạp xe đi sau, thỉnh thoảng huýt sáo bản nhạc "Anh vẫn hành quân". Tới ngã rẽ Nam Liên, cô bảo tôi dừng xe rồi nhảy lên xe người đàn ông kia mà không nói một lời. Người đàn ông cười cười:
     - Cảm ơn ông bạn đã chở giùm vợ tôi nhé!
Tôi tức quá nhưng biết làm chi, chỉ nhìn theo đôi vợ chồng chở nhau cười khúc khích khuất dần sau dãy xà cừ.
     Nghe tôi kể xong, anh Tuấn cười, bình luận: "Ngu là ở chỗ cứ thấy gái đẹp là tít mắt".
    

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

CHỬI. . .

- Mớ cá này mấy đồng bà?
- Bảy đồng.
- Bốn đồng bán không?
- Không!
- Bốn đồng rưỡi?
- Không!
- Thôi trả lần cuối năm đồng.
- Không!
- Cha tiên nhân đứa nào trả hơn!
Nói rồi bà bỏ đi sang hàng cá khác, mấy người đang bu quanh hàng cá đó cũng tản đi. Đoạn mặc cả trên tôi nghe được ở chợ Cồn ( Nghệ An ). Người chửi không chửi người bán, chỉ chửi những người đang định mua cá. Người ta tản đi vì nếu mua cá là nhận câu chửi "cha tiên nhân" rồi.
     Kiểu chửi chung chung như bà mua cá ở chợ Cồn, trong dân gian có bài chửi mất gà với hàng chục dị bản. "Bài" chửi mất gà ngoa ngoắt, phàm phu và rất bài bản, lớp lang. "Bài" chửi dài nên chỉ trích vài đoạn:
     - Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái vàng; sáng nay tôi còn cho nó ăn, thế mà giờ đây nó bị mất! Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe đấy...ấy...ấy....
     - Cha tiên nhân ông nội ông ngoại, ông dại ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhá! Mày gian tham đã ăn trộm ăn cắp con gà mái nhà bà. Rồi ra, nhà mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước đầu bước ra sau, đẻ sót nhau, chết mau chết sớm! Chết trẻ, đẻ ngang nhá! . . .
     - Hôm nay bà chửi một bài, ngày mai bà sẽ chửi hai lần liền. Bà chửi cho mày hóa điên, bà rủa suốt tháng liên miên không ngừng. Bây giờ bà mệt quá chừng, bà về cơm nước, nhớ đừng quên a. . Muốn sống thì thả gà ra, lạy bà hai lạy bà tha cho mày . . .
     Nếu cứ cho rằng cách chửi của dân gian là ngoa ngoắt, phàm phu là phiến diện. Cái thâm thúy, bác học thường được gắn với nhân vật huyền thoại, như Trạng Quỳnh chẳng hạn. Hồi bảy, tám tuổi, Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi. Tú Cát nghe người ta khen Quỳnh đâm ra ghen ghét. Làng này chỉ Tú Cát mới đáng mặt kẻ sĩ, nên trước mặt mọi người, ông thách Quỳnh đối:
     - Lợn cấn ăn cám tốn.
Phải nói câu đối ra khá hay, theo nghĩa đen là lợn cấn (có bệnh), nuôi chỉ tổ tốn cám mà không lớn. Chữ "cấn", chữ "tốn" là hai quẻ trong Kinh Dịch.
     - Chó khôn chớ cắn càn. Quỳnh đáp.
Vế đối của Quỳnh quá chỉnh. Chữ "khôn". chữ "càn" cũng là hai quẻ trong Kinh Dịch.
Tức khí vì bị chửi xéo, Tú Cát tiếp:
     - Trời sinh ông Tú Cát.
Quỳnh hỏi:
     - Trời đối với đất được chứ ạ?
     - Được!
     - Cát đối với hung?
     - Được! Đối đi, hỏi gì mà hỏi lắm thế.
Quỳnh đọc:
     - Đất nứt con bọ hung.
Tú Cát đối bọ hung! Bị Quỳnh xỏ đau quá, nhưng Tú Cát cũng phải đành ngậm họng, bỏ đi.
     Tính Quỳnh ngang ngạnh, chẳng coi thần thánh ra gì, nên thành hoàng làng bắt con Quỳnh ốm. Vợ Quỳnh xem thầy, nghe nói ngài quở, Quỳnh phải cúng vái mới xong. Chiều lòng vợ, Quỳnh luộc hai quả trứng mang ra miễu thành hoàng cúng. Bài cúng của Quỳnh như sau:
     Chú là kẻ cả trong làng,
     Ta là người sang trong nước
     Hai bên chức tước
     Chẳng kém chi nhau.
     Nay trẻ nó đau
     Phải ra khấn vái.
     Phiên chợ thì trái,
     Chẳng mua được gì
     Có con gà ri
     Nó vừa nhảy ổ
     Đem ra mà mổ
     Nghĩ cũng thương tình
     Chú có anh linh
     Xơi hai trứng vậy!
Cái ngông của Quỳnh cùng với giọng điệu bài khấn, với câu kết làm cho người ta liên tưởng . . .
     Chửi thành hoàng đã gan nhưng thấm chi so với chửi cả quốc gia! Thói thường, nước lớn luôn ức hiếp, làm nhục nước nhỏ; nhưng nhiều khi kẻ gieo gió gặt bão. Chuyện xưa kể rằng: Án Anh ( người nước Tề ) đi sứ nước Sở. Sở vương muốn làm nhục nước Tề, không cho Án Anh vào cung bằng cửa lớn, bảo Án Anh chui qua cửa dành cho chó. Án Anh chửi:
     - Nay ta sang nước Sở phải đi bằng cổng lớn mới đến nước Sở, nếu chui vào cổng chó chẳng nhẽ ta lại đến nước chó hả?
     Nước ta, đi sứ để khẳng định tinh thần dân tộc không ai bằng Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346 ). Sau ba lần thua trận trước Đại Việt, vua Nguyên vẫn muốn đánh lần thứ tư. Để tránh nạn binh đao, Mạc Đĩnh Chi đi sứ với trọng trách nặng nề là hóa giải chiến tranh và thể hiện tinh thần Việt. Khi tiếp kiến, vua Nguyên ra câu đối:
     - Nhật: hỏa, vân: yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ. ( Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng ).
 Hiểu dụng ý răn đe của ông vua nước lớn, tự xem Tàu là mặt trời, Đại Việt là mặt trăng, Mạc Đĩnh Chi đối:
     - Nguyệt: cung, tinh: đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô. ( Trăng là cung, sao là tên, chiều tối bắn rơi mặt trời ).
Cốt cách cứng cỏi, cọng với tài năng xuất chúng của Mạc Đĩnh Chi khiến vua Nguyên phải từ bỏ ý định xâm lược Đại Việt lần nữa, phục tài, phong ông là: "Lưỡng quốc trạng nguyên".
     Chửi là tỏ thái độ bất bình, là phản kháng nhưng nếu chửi ở mức độ "thượng thừa" thì đó lại là những lời "có cánh". Chuyện kể rằng Nguyễn Văn Tâm khi làm thủ tướng bù nhìn ( 1934 ), được ai đó tặng hoành phi có khắc bốn chữ: "Đại điểm quần thần". Người ta cứ nghĩ ý nghĩa của nó là " Nhân vật lớn, quan trọng, đứng đầu trong quan chức chính phủ". Nhiều người cứ tấm tắc với ý nghĩa sâu xa, nét chữ rồng bay phượng múa. Rồi đến một hôm, có ông lão đọc hoành phi rồi cười sằng sặc. Hỏi, lão nói:
     - Đại là to, điểm là chấm, quần thần là bầy tôi;. nói lái "chấm to", "bầy tôi" thì sẽ rõ ý nghĩa lời "khen tặng" khắc trên hoành phi! 
     Lại nghe chuyện vợ quan Liêm gặp vợ quan Tham ở siêu thị. Vợ quan Tham đẩy cái xe nôi tủ kín. Trong cái xe nôi ấy là con lợn quay tính đưa đi bán.Con lợn quay là lễ tạ của thằng đàn em được quan Tham sắp xếp vào quản lý một công ty "màu mỡ". Bà vợ quan Liêm hỏi:
     - Chị đi mua sắm à?
     - Tôi đẩy cháu nội đi chơi, nó đang ngủ.
Vợ quan Liêm vén màn xe nôi, nhìn kĩ, buông màn xuống, nhẹ nhàng:
     - Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Khuôn mặt y chang ông nội!
     Có khi gài bẫy để khen, khen mà chửi thì Chế Lan Viên thuộc hàng cao thủ. Hồi còn chiến tranh chống Mĩ, Chế vào công tác ở đất lửa khu bốn. Trở ra Hà Nội, bộ ba Chế Lan viên, Huy Cận, Xuân Diệu gặp nhau ở quán bia hơi.
     - Hoan vào trong ấy có gì mới không? Xuân Diệu hỏi:
     - Nhân dân anh dũng, hăng hái chiến đấu, có thời gian rảnh là đọc thơ.
     - Dân quê mình có truyền thống yêu thơ. Mà này, họ thích nhà thơ nào nhất?
     -  Bút Tre.
Xuân Diệu phát khùng:
     - Ai không thích lại thích Bút Tre, thơ kiểu: "Mời bạn về xem núi con voi / Đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi / Tất cả hăng say đua sản xuất / Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai" ư?
Chế Lan Viên cười:
     - Thích thơ Bút Tre nhưng không phải bài ấy.
Xuân Diệu hỏi dồn:
     - Bài nào?
     - Ngói mới!
Xuân Diệu đỏ mặt. Bài "Ngói mới" của ông đưa vào chương trình cấp III hẳn hoi nhưng có lẽ nó là bài thơ dở nhất của ông.
     Viết đến đây tôi bỗng nhớ lại câu chuyện tiếu lâm chửi bậy thời thập niên 80. Chuyện kể về ngôi nhà tập thể bốn tầng không có nhà vệ sinh nhưng sắp xếp nhà trẻ, nhà ở cho công nhân, văn nghệ sĩ, lãnh đạo hợp lý thì vẫn ở được, thậm chí còn tốt nữa kia.
     Không biết khùng điên gì mà viết về chửi; đọc xong không biết có ai chửi ta không nhỉ.

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

ÔNG HENG

Dưới chân núi Kho Vàng, cách làng tôi độ khoảng 2km là một bàu sen rộng hơn chục ha. Đất ven bàu màu mỡ, rộng lắm nhưng không ai trồng tỉa gì. Nghe nói từ xưa như vậy và bây giờ vẫn vậy.
     Từ nửa xuân đến cuối thu, bàu sen ngào ngạt hương, đẹp và thơm nhất là mùa hè. Bọn trẻ con sáng ra câu cá, đến độ mười giờ là không còn một đứa. Buổi chiều, chúng chỉ ra đấy từ khoảng hai giờ đến năm giờ là biến mất dạng. Không phải chúng ngoan, sợ nắng mà là sợ ma. Ma bàu sen thiêng lắm, chúng sợ khi đang nằm từ trong bụng mẹ kia. Người lớn hầu như ít ai ngang qua bàu sen ban ngày chứ đừng nói gì đến ban đêm. Hồi chiến tranh, có một đơn vị bộ đội đóng trại ở đó được một đêm, sáng hôm sau nhổ trại đóng chỗ khác. Chuyện quân sự hay ma quái ai mà biết được.
     Nguồn lợi từ bàu sen rất lớn, hợp tác xã khoán cho mười hộ thu hoạch sen tính công điểm. ngay ngày đầu tiên, cả chục người mang thuyền nan ra hái ngó sen, mỗi người chưa được chục bông thì đau bụng dữ dội, đành ngừng. Ngày hôm sau, hôm sau nữa vẫn thế. Ban quản trị hợp tác không tin, đi thu hoạch thử. Vừa bước chân xuống thuyền đã ôm bụng la oai oái, không hái được cái ngó sen nào cả. Thế rồi trong bàu, hoa sen tự mọc, tự tàn không ai dám động đến ngoại trừ mấy đứa trẻ sáng chiều kéo nhau ra bàu câu cá.
     Nước bàu sen khá trong, nhìn tưởng lội chỉ quá đầu gối một tí. Nhưng chẳng ai dám đặt chân xuống bàu. Dưới tầng nước kia là bùn non như không có đáy, càng quẫy, càng cố rút chân thì lún càng nhanh. sau vụ cô Thi chết hụt thì bàu sen càng vắng bóng người hơn.
     Nhà cô Thi ở gần bàu sen nhất. Mẹ con cô mới mua lại căn nhà của ông Quý thịt lợn. Ngôi nhà khá đẹp, vườn tược rộng nhưng giá rẻ như cho. Nghe đâu mẹ con cô Thi từ miền ngược chuyển về sau khi cha cô đi săn bị cọp vồ chết.
     Cô Thi có mái tóc dài chấm mắt cá chân, óng mượt, thoang thoảng mùi hoa bưởi. Cô hát rất hay. Nhiều lúc mấy đứa trẻ con chúng tôi nghe hát mà quên cả câu cá. Từ khi mẹ con cô về đây sống, đêm đêm cuối làng náo động hẳn lên bởi tiếng chó sủa, tiếng hát, tiếng nói cười của các anh thanh niên đến nhà cô chơi.
     Về nhà mới chừng được tháng hơn tháng kém gì đấy, cô theo chúng tôi ra bàu sen, xem chúng tôi câu cá. Trời về chiều, chúng tôi chuẩn bị ra về, cô Thi với tay hái một búp sen. Vừa bước một chân xuống nước, thấy lún nhanh quá, cô muốn rút chân lại nhưng không hiểu sao lại đưa cả chân kia xuống bàu. Cô càng vùng vẫy thì càng chìm dần, càng xa bờ dần. Cô không la được mà bọn tôi hầu như đứa nào cũng cứng họng, đứng bất động. Khi cô Thi chỉ còn chỏm tóc trên mặt nước thì ông Heng xuất hiện. Ông hét lớn: "Đừng, đừng" rồi giật trong bị cói một sợi dây dù có móc sắt như chùm lưỡi câu rường lớn, quẳng mấu vào hòn đá ven bờ, một tay nắm dây lội ra cứu cô Thi. Cả cô Thi và ông Heng chìm dưới hồ, bọt nước sủi ùng ục. Sợi dây dù căng như dây đàn. Một lúc sau ông Heng cũng cõng cô Thi lên bờ được. Ông Heng trông như con rùa, còn cô Thi trông như tàu lá chuối héo. Ông vác ngược cô thi xốc nước. Cô Thi tỉnh lại, thấy ông Heng cô rú lên một tiếng rồi im bặt. Sau lần chết hụt ấy, cô không mói, không cười, không hát. Cuối xóm lại vắng lặng và có phần ảm đạm hơn so với khi mẹ con cô chưa tới.
     Lại nói chuyện ông Heng. Không ai biết ông là người kinh hay người thượng. Ông cao hơn chiếc xe đạp Hữu Nghị của ông một tí. chiếc xe trụi trọc, không chắn bùn, chắn xích, chuông, phanh, "gác ba ga" và không biển xe, hình chữ nhật, bằng bàn tay trẻ con. Sườn ngang ông treo cái bị cói đựng đồ nghề câu cá, dây dù và đựng cá câu được. Từ khi ông xuất hiện cứu cô Thi chúng tôi mới biết ông câu cá ở đâu.
     Ông không nhà, tài sản duy nhất là chiếc xe trọc. Thi thoảng, thấy ông ngủ trong hốc cây đa. Những khi mưa gió ông che hốc cây bằng hai tấm tranh nứa kẹp lại. Bọn trẻ chúng tôi không biết ông sống như thế nào, chỉ thấy ông ở trong hốc cây không ngủ thì uống rượu. Đồ nhắm của ông là chuối xanh, bưởi hay mấy quả ổi với nắm ớt xiêm chấm muối. Lúc trước thấy ông thì sợ, sau vụ ông cứu cô Thi chúng tôi bắt đầu tò mò về ông, thậm chí lẽo đẽo theo ông xem ông bán cá. Mấy bà già trong xóm nói cứ khi nào thấy ông Heng bán cá trê thì nhất định hôm đó là ngày rằm.
     Có một điều lạ là cá của ông bán lúc nào cũng sống và trong mớ cá ấy có một con cụt đuôi. Bày mớ cá lên lá chuối hay lá xoan trước cổng chợ, ông ngồi uống rượu. Ai hỏi mua là ông bán, trả bao nhiêu cũng được, hễ trả là ông bán. Còn khi ông mời mua, hỏi giá thì không ai bớt được một xu, và khi ông mời mua cá thì không trước thì sau phải mua cá của ông. Một hôm, ngày rằm, vợ ông trưởng phòng giáo dục huyện đi chợ, ngang qua "hàng cá" của ông, ông mời:
     - Cá này tươi, cô mua nấu cho thầy ăn.
     - Bao nhiêu?
     - Năm đồng.
     - Năm đồng trong chợ gấp mười mớ cá của ông, với lại thầy mà ăn thứ cá ni à! Nói xong vợ ông trưởng phòng giáo dục ngoay ngoảy bỏ đi.
     Lúc đó, mẹ cô Thi đi ngang qua, chào ông. Ông nói:
     - Bà mang mớ cá này về nấu.
Vừa nói ông vừa giằng cái rổ từ tay bà, hốt mớ cá bỏ vào, trừ lại con cá cụt đuôi. Lấy sợi lạt xỏ vào mang cá, lão đạp xe lên phòng giáo dục, đi thẳng vào phòng làm việc của trưởng phòng.
     - Bán cho thầy con cá.
     - Ông mang ra chợ mà bán, để tôi còn làm việc.
Ông Heng không nói gì nữa, cứ đứng giữa phòng, bực quá, ông trưởng phòng gọi bảo vệ:
     - Cậu tống cổ lão này ra ngoài cho tôi.
Anh bảo vệ kéo ông ra khỏi phòng. Ông ngồi ngay cổng. Đầu năm, mùa tuyển giáo viên, người ra vào nườm nượp. Ai hỏi sao ngồi đấy, ông nói chờ bán cá cho trưởng phòng. Trưa, ông trưởng phòng về nhà, ông Heng đạp xe theo, đến cổng, ông la:
     - Bớ bà trưởng phòng ra mua cá.
Bà vợ ông trưởng phòng ra chửi, ông vẫn ngồi trước cửa, chửi mãi vẫn không đi. Ngặt nỗi, trưa nay ông trưởng phòng hẹn mấy người xin việc đến nhà để 'giải quyết". Thằng khùng này cứ ám mãi thế này không xong. Ông bảo bà:
     - Thôi mua quách cho lão.
Bà hỏi:
     - Bao nhiêu?
     - Năm đồng.
     - Con cá chết thúi này gà không thèm mổ mà đòi năm đồng, có phải là quân ăn cướp không. Qay sang chồng, bà bảo:
     - Ông gọi công an ngay cho tôi.
     - Tôi mong công an cho tôi vào tù, khỏi câu cá, có cơm ăn, nhà ở.
Lì đến thế là cùng. Ông trưởng phòng móc ví, lấy năm đồng đưa cho lão. Lão đưa cá cho vợ ông trưởng phòng:
     - Không nấu cho ông ấy ăn là có chuyện đấy. Nói xong, lão đạp xe đi. Vợ ông trưởng phòng ném con cá theo lão kèm theo lời chửi:
     - Đồ ma quỷ bắt!
     Chiều đó, bà vợ ông trưởng phòng đau đầu, sốt. Đưa đến bệnh viện thì xụi lơ. Sau này khỏi bệnh nhưng miệng thì méo, muốn nói được một câu phải mất dăm ba phút. Khi bà nằm viện, thằng con chạy xe máy Ja-va vào thăm, chở theo cô vợ tương lai - con ông trưởng phòng tài chính, luýnh quýnh thế nào tông phải ông viện phó, xe cháy, đứa con gãy răng, cô vợ chưa cưới gãy chân, ông viện phó gãy ba cái xương sườn.
     Chữa chạy, đền bù tạm ổn thì đến lượt ông trưởng phòng. Ông không bị tai nạn, đau ốm mà bị xử lý kỷ luật về tội tham ô, nhận hối lộ. May gần đến tuổi, người ta cho nghỉ hưu non. Một suất lương hưu nuôi mấy người, thành ra đầu tắt mặt tối với gà vịt ruộng vườn. Thỉnh thoảng, ông cũng ra bàu sen câu cá cải thiện bữa ăn. Số ông không mấy sát cá nên bọn trẻ chúng tôi mỗi đứa cho ông một con.
     Lâu lâu, không thấy ông Heng ở chợ hay ở hốc cây đa, bọn trẻ chúng tôi như thấy thiêu thiếu cái gì đó. Một hôm, nói chuyện với bà ngoại về ông Heng, nghe chuyện, dì tôi bảo:
     - Dì thấy ông ở chùa sư nữ. Buồn cười lắm. Ông đội cái nồi đồng trên đầu, đạp xe vào chùa. Mới nhìn, tưởng cái nồi đồng lái xe.
     - Ông đội nồi đồng làm gì?
     - Thì đem cho chùa chứ làm gì nữa. Từ quê tôi xuống đến chùa sư nữ cả trăm cây số. Thì ra ông Heng biệt tăm vì chuyện ấy.
     Mấy hôm sau, gặp ông Heng, hỏi ông lấy nồi đồng ở đâu. Ông bảo:
     - Ở bàu sen chứ ở đâu! Rồi ông kể cho chúng tôi bàu sen trước kia là một làng trù phú, không biết mắc tội gì với Thiên đình mà Trời giáng động đất, vùi cả một làng. Thỉnh thoảng, ngày rằm, mùng một bàu sen lại nổi lên nồi đồng, cánh cửa, có khi cả bộ đồ thờ . . .Ông dùng sợi dây dù có mấu là để lấy các vật ấy.
     Thời gian dần trôi, vào học cấp III, tôi và lũ bạn không ra bàu sen câu cá nữa, có nhiều chuyện để chúng tôi quan tâm hơn chuyện ông Heng.. . .Rồi tôi đi bộ đội, chuyển ngành, về thăm lại bàu sen, ngang qua nhà cô Thi thấy người ra kẻ vào. Hỏi ra mới biết khi ông Heng đem cho mẹ con cô Thi cái bàn thờ cổ thì bỗng nhiên cô nói được; nói cái gì cũng đúng. Rồi người đến lễ ngày càng đông. Và câu cuối cùng sau khi cô phán là: "ăn ở nhân đức nghe con".
     Thấy tôi, cô mời uống trà, hỏi săp lấy vợ chưa, rồi dặn dò phải chọn người phước đức. . .Hỏi cô về ông Heng, chắp hai tay trước ngực, nhìn theo làn khói hương, cô nói: " ngài thăng rồi!".