Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

THÚ VỊ TIẾNG TA

1. Đang lai rai ở trại cá chú Năm Ngọc nghe Hường ( cháu của Hồ Kim Lân, tên gọi ở nhà là Mốc) kể chuyện quậy thời học trò thì Phạm Thái Hòa cùng Bảy Bình đến.
     - Đi đám cưới có vui không anh Năm?
     - Vui viếc gì. Nốc cho lắm vào rồi cãi lộn, ghét quá, tôi kéo Bảy Bình ra đây.
Nghe Năm Hòa nói, Mốc chuyển đề tài:
    - Vui vẻ chứ sao lại vui viếc hả thầy?
    - Cái gì thêm "iếc" là có chiều hướng xấu, không bằng lòng . . .
    - Đúng rồi, ví như "làm liếc", "yêu iếc", "nói niếc". . .Hồ Kim Lân bổ sung. Phạm Quang Nghiêm phát hiện:
    - "Nói niếc" thì viết được, chứ "yêu iếc" viết như thế nào? Không ngờ Năm Hòa lên tiếng:
    - Hai chữ cùng phát âm "i" thì bỏ đi một chữ. không thể viết "y" rồi cộng thêm "iếc" được.
    - Nếu như thêm "iếc" là có xu hướng xấu thì thêm gì là có xu hướng đẹp hả thầy? Mốc hỏi.
Tôi trả lời là thêm "ắn". Ví dụ "đỏ đắn", "xinh xắn", "thẳng thắn", "vuông vắn", "ngay ngắn". . .  

2. Câu chuyện về tiếng ta đến cao trào, đề tài chuyển sang từ láy không biết từ lúc nào. Bia hết, Phạm Quang Nghiêm "sáng kiến":
    - Thầy Thắng làm trọng tài, còn mỗi người đưa ra một từ láy tư, ai không đưa ra được phải phạt mua bốn lon Heineken. Phạm Thái Hòa lên tiếng:
    - Tôi chịu thua một thùng nhưng đề xuất ngược lại là ai không tìm được thì phải uống thêm một lon ngoài ly tua. Tất cả nhất trí, bắt đầu từ Mốc:
    - Lanh cha lanh chanh. Bảy Bình tiếp theo:
    - Lừ đà lừ đừ.
Phạm Quang Ngiêm nói.
    - Đủng đà đủng đỉnh. Hồ Kim Lân cười cười . . .Cứ như thế xoay tua, nào là Xí xa xí xọn, Lủng cà lủng củng, Vớ va vớ vẩn. . .
Nhẩm theo những ví dụ đưa ra, tôi chợt nghĩ đến cấu tạo từ láy tư. Có phải bắt đầu từ từ láy đôi, lấy phụ âm đầu của chữ thứ hai cộng thêm "a" hoặc "à" là có được từ láy tư; hai chữ cuối của từ láy tư chính là từ láy đôi, cái gốc của từ láy tư Muốn khẳng định được điều này chắc chắn phải khảo sát, đối chiếu nhiều. Cảm nhận ban đầu của tôi nếu sai vì chưa có căn cứ xác đáng mong bạn đọc đừng chế giễu.

3. Đang lan man với cấu tạo từ láy, sự phong phú, đa dạng, hàm súc của tiếng ta với nghệ thuật điệp, đối, chơi chữ, nói lái . . .giật mình khi Mốc ấn vào tay tôi ly bia còn Hồ Kim Lân tuyên bố:
    - Hai tua rồi chưa phạt được ai, giờ chơi luôn từ láy ba, bắt đầu từ tôi: "lơ tơ mơ". Chuyển ly sang cho Nghiêm, Bảy Bình lên tiếng: "khỏe khòe khoe".Từ Phạm Quang Nghiêm trở đi đều bị phạt, đến lượt tôi, Phạm Thái Hòa cười cười: 
    - Thầy có chịu phạt không?
Tôi cười: - Bốn tua nữa tôi cũng không bị phạt.
Nói đến từ láy ba, cách đây hơn 30 năm, anh Nguyễn Khắc Luận sau đợt tham quan Hà Nội về có đọc cho tôi nghe bài thơ của một cậu bé năm tuổi về "Cầu Thê Húc". Bài thơ bốn câu, câu nào cũng sử dụng từ láy ba rất đúng với cảm xúc, tâm trạng lứa tuổi nhi đồng. Tiếc rằng tôi không biết tên tác giả nhưng bài thơ mãi mãi lung linh trong tôi về vẻ đẹp tiếng ta:
    Cầu Thê Húc đỏ đỏ đỏ
    Cây ven hồ xanh xanh xanh
    Đứng trên cầu thích thích thích
    Nhìn xuống nước sợ sợ sợ.
Nghe xong bài thơ tôi đọc, Kim Lân nâng ly, uống cạn một hơi, vẻ mặt hân hoan:
    - Tiếng ta thú vị thật!

Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2012

CHỚM THU

Đầu Thu - mới chớm nắng vàng
Đậu trên những tán lá bàng đậm xanh,
Tiếng ve còn sót trên cành
Ráng chiều phớt tím mong manh cuối trời.
Nao lòng ngọn khói chơi vơi
Mùi thơm cơm mới nhớ người chốn xa,
Trăng nương cành liễu la đà
Rình xem quỳnh nở cánh hoa trắng ngần.

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

CÓ NHẤT THIẾT PHẢI LÀ ĐẠI HỌC?

1. - Đố các ông mùa nào ảnh hưởng tới xã hội nhiều nhất? Hoan "bọ ngựa" hỏi sau khi hết ly bia đầu tiên.
- Mùa hạ, vì nó nóng quá, mọi người đi ra đường che kín từ đầu đến chân, giống như một quốc gia theo đạo Hồi. Đức râu xoa cằm trả lời.
- Cậu Hoan giờ cũng láu nhé, đố mẹo cơ đấy. Anh Tuấn cười cười. Theo mình, đó là mùa thi đại học. Này nhé, gia đình có con cháu thi thì phấp phỏng lo âu, có người cầu cúng khắp nơi. Trước và sau ba bốn ngày thi xe cộ vận tải hành khách lên giá ào ào chẳng khác gì dịp tết nguyên đán. Sĩ tử, phụ huynh phấp phỏng chờ đợi kết quả sau kỳ thi cả tháng. . .
     Tôi nghí anh Tuấn nói đúng. Làm công tác quản lý giáo dục nên tôi hiểu trên 50% học sinh không có khả năng thi vào đại học nhưng vẫn dự thi một đến hai trường, giống như việc thi vào đại học là cứu cánh duy nhất. Hơn 20 năm làm công tác quản lý giáo dục tôi chưa hề thấy em nào mùa tuyển sinh đăng ký học nghề hay đăng ký tuyển sinh vào một trường trung cấp nào đó trong khi xã hội rất cần thợ, kỹ thuật viên có tay nghề đã qua đào tạo.
     Việc "quyết vào đại học" là tâm lý chung của xã hội bắt nguồn từ chữ "sĩ". Ở đây tôi muốn nói đến sĩ diện chứ không phải chữ sĩ ở khía cạnh hiểu biết. Gia đình có con đỗ đại học trở nên "danh giá" hơn so với phần còn lại. Có nơi thành phong trào. Cách đây hơn 20 năm, ở xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An có câu đối tự hào về sự đỗ đạt: "Sáng khoai, trưa khoai, khoai ba bữa / Cha đỗ, con đỗ, đỗ cả nhà".
     Thời ấy, đỗ đại học đương nhiên ra trường có việc làm, và đương nhiên thoát khỏi cảnh cơ cực, nghèo khó của nghề làm nông cho dù cuộc sống không mấy sung túc. Bây giờ, thời kinh tế thị trường nhưng tâm lý của thời bao cấp hình như vẫn còn nguyên giá trị. Nhiều người nghĩ rằng có tấm bằng đại học, vào biên chế nhà nước, sau này về hưu có lương, cuộc sống về già được đảm bảo. . .Cho nên, nhiều gia đình lo nuôi con có tấm bằng đại học rồi lại lo "chạy chọt" có khi đến mấy trăm triệu đồng để có một suất biên chế nhà nước. Tiêu cực từ đó mà ra, sức ì của xã hội cũng ở chỗ đó. Với trí tuệ "đại học" và số vốn mấy trăm triệu mà sao các ông cử, bà cử không tự lập nghiệp được? Xin thưa, giáo dục đại học ở ta thiên về lý thuyết, kỹ năng thực hành kém. Không xuất phát từ thực tế cuộc sống, thực tế lao động, chỉ với một mớ lý thuyết thì làm gì có sáng tạo, làm gì có năng động.
2. Anh Tuấn bảo tôi:
- Vừa rồi, có hai cử nhân đến làm việc chỗ mình. Nhận họ làm mà không vui một chút nào. Một cậu là cháu một quan chức gửi trong lúc chờ sắp chỗ. Không nhận không được. Học đại học theo kiểu liên kết do Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh mở, bằng giỏi hẳn hoi thế mà đọc bản vẽ thua mấy tay đội trưởng của mình.
     Còn một cậu học Đại học Nông lâm, nhà nghèo, ra trường chẳng xin được việc ở đâu cả nên đành xin mình làm công nhân. Thật tội, làm công nhân thì phải ăn lương công nhân thôi . . .
     Trường hợp thứ hai anh Tuấn nói tôi biết. Em là con thứ hai trong một gia đình có 6 anh chị em, mồ côi cha. Nhà nghèo, may nhờ chính sách cho vay để học đại học của nhà nước cộng với quyết tâm của cả dòng họ em mới được học đại học. Học xong phải trả nợ ngân hàng. Không xin được việc làm đúng với chuyên ngành đào tạo, đành phải đi làm thợ.Chủ nhật tuần trước, em tới nhà thăm tôi: "Biết như thế này học xong 12 em đi học công nhân kỹ thuật sướng hơn. Học nghề không phải đóng học phí, thời gian lại ngắn, đỡ tốn tiền gia đình". Ba năm làm công nhân, với tính tình  em, tôi tin em có một số tiền kha khá. Đằng này, mất ba năm nữa chắc gì đã trả hết nợ ngân hàng nói chi đến chuyện giúp gia đình.
     Cũng theo lời em kể, mấy đứa bạn cùng lớp thời phổ thông, tốt nghiệp đại học không xin được việc làm, sợ "quê" nên không dám về quê, bám trụ thành phố, đứa phụ việc nhà hàng, đứa làm tiếp thị, may mắn hơn là làm nhân viên bán xe máy. Chao ôi! Cái nghề phổ thông lại sử dụng lao động cử nhân, có nước nào "sang" như Việt Nam không?
3. "Ôn cố tri tân", Đức râu "hoài cổ":
- Thời ông Thắng và em thi đỗ đại học đúng nghĩa vượt vũ môn. Mỗi học sinh chỉ được dự thi một trường, đại học thì khỏi cao đẳng. Tính đi tính lại cả nước có bao nhiêu trường đại học đâu. Tỷ lệ chọi vì thế rất cao. Tự hào thật nhưng cuộc sống sinh viên hồi đó quá đói, quá thiếu thốn. Đói quá nên ăn cái gì cũng ngon. Mười sáu kg lương thực thì độn hết mười một kg. Cái gì cũng thiếu nên rốt cuộc không biết thiếu cái gì. . .Chục năm gần đây trường đại học mọc lên như nấm sau mưa.
Anh Tuấn cười:
- Quy luật thị trường mà. Thời nay kinh doanh đào tạo cử nhân là có lãi nhất. người ta đâu cần biết số phận của sinh viên ra sao sau khi cầm mảnh bằng tốt nghiệp.
     Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm đúng chuyên ngành có được bao nhiêu? Trong một lần tư vấn mùa thi ở trường tôi, một cán bộ tuyển sinh ở trường đại học X dõng dạc trả lời câu hỏi của một em học sinh khối 12: "Tỷ lệ có việc làm của trường X sau tốt nghiệp là 98%". Tôi giật nẩy người nhưng không thể cải chính ngay lúc đó vì trường đại học X khi đó mới thành lập có 2 năm (!), còn 2 năm nữa mới có học sinh tốt nghiệp khóa đầu tiên sao biết trước sau khi tốt nghệp có 98% có việc làm? Hay là lại lao động phổ thông với tấm bằng đại học? Giờ đây, ngẫm lại tôi thấy trường nào quảng bá nhiều nhất, tích cực tư vấn mùa thi nhiều nhất thì trường đó kết quả đào tạo lại có vấn đề nhất.
     Những học sinh ưu tú bậc THPT mới đỗ vào các trường có danh tiếng. Nhưng khi cầm tấm bằng đại học chính quy ấy đi xin việc có khi không bằng mảnh bằng đại học hệ tại chức, từ xa. Thành phố Đà Nẵng mấy năm trước đây đưa ra quyết định chỉ tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy thì một số báo chí phê phán "không đúng luật", bởi vì, đã tốt nghiệp đại học hệ gì cũng có giá trị như nhau (!). Nói thế là cào bằng tất cả, tôi nghĩ người viết bài báo ấy có khi là chủ nhân của mảnh bằng tại chức hay từ xa cũng nên. Có lẽ, xuất phát từ hiện thực cuộc sống về chuyện xin việc làm, người ta đúc kết thành câu "ranh ngôn": " Thứ nhất tiền tệ, thứ nhì hậu duệ, thứ ba quan hệ, thứ tư trí tuệ".
4. Một tín hiệu đáng mừng là Luật Giáo dục đại học đã ra đời; việc chấn chỉnh, rút chỉ tiêu tuyển sinh của một vài trường đại học được thực hiện. Giáo dục đại học rồi sẽ đi vào nề nếp, đáp ứng nhu cầu xã hội, tôi tin thế.
     Tuy nhiên, việc cần làm ngay trong giáo dục THPT là phải chỉ cho các em và phụ huynh thấy không phải vào đại học là cứu cánh duy nhất cho cuộc đời. Có biết bao nhiêu người sáng chế phát minh khoa học làm thay đổi cuộc sống không có tấm bằng đại học và có biết bao nhiêu người không có bằng đại học mà rất giàu có được xã hội tôn trọng, ngưỡng mộ. . .
     Nâng cốc chia tay, anh Tuấn nói:
- Hẹn dịp khác bàn sâu hơn về vấn đề này. Nói chuyện nãy giờ tôi chợt nhớ câu chuyện ngụ ngôn Trung Quốc dến nay vẫn còn nguyên giá trị: " Chu Bình Man học thuật giết rồng của Chi Li. Ba năm khánh kiệt cả gia sản, có đến nghìn vàng. Thành tài, không biết dùng làm gì cả".

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

ĐỂ CÓ NHỮNG TẤM HUY CHƯƠNG OLYMPIC

                                                             Nữ võ sĩ Trần Hiếu Ngân

Năm 2000, tại Sydney, nữ võ sĩ  Taekwondo Trần Hiếu Ngân đã xuất sắc giành tấm huy chương bạc Olympic, tấm huy chương đầu tiên của ngành thể thao Việt Nam.Và từ đó đến nay, đã 3 kỳ Olympic trôi qua, chúng ta chưa có thêm một tấm huy chương nào nữa, cho dù trước những trận đấu lớn nhiều chuyên gia, nhà báo nhận định vận động viên Việt Nam có những người ở trong tốp tranh chấp huy chương.
     Trong thời gian dạy Taekwondo ở Trường cấp II-III Phan Chu Trinh ( Xuân Lộc, Tx Sông Cầu, Phú Yên , cũng là quê ngoại Trần Hiếu Ngân) từ năm 2008 - 2010, võ sư Nguyễn Ngọc Hùng, thầy của võ sĩ Trần Hiếu Ngân rất tự hào khi nói về học trò cưng: "Hiếu Ngân rất đam mê võ thuật, có thể lực tốt vì vừa tích cực tập luyện võ thuật vừa lao động giúp gia đình sản xuất bánh kẹo, một công việc đòi hỏi phải có sức khỏe. Hiếu Ngân dịu dàng, ít nói nhưng trong các trận đấu, kể cả đấu tập, rất dũng mãnh, thông minh, cách đánh biến ảo, linh hoạt. Bao giờ cũng vậy, sau mỗi trận đấu đều cùng bạn bè, huấn luyện viên phân tích cái hay, cái dở, do đó Hiếu Ngân trưởng thành trên mọi phương diện". Tôi rất tâm đắc về câu nói của thầy khi tàn câu chuyện: "Võ thuật nói riêng, thể thao nói chung khi đạt tới đỉnh cao thì trở thành nghệ thuật. Chiến thắng trong thể thao, yếu tố tiên quyết nhất vẫn là trí tuệ".
     Olympic London 2012, lực sĩ cử tạ Trần Lê Quốc Toàn là niềm hy vọng huy chương của thể thao Việt Nam. Thế nhưng niềm hy vọng ấy lại trở thành nỗi thất vọng. Nếu không sai sót, theo lời Toàn, thì anh "chạm tay vào chiếc huy chương bạc". Lịch sử không có chữ "nếu". Chúng ta không trách Toàn, anh đã làm hết khả năng của mình. nhưng đằng sau thất bại của anh, vai trò huấn luyện viên ở đâu khi đối thủ của anh chưa ai khởi động anh đã khởi động, lại khởi động quá nhiều mất sức một cách không cần thiết? Rồi việc đánh giá đối thủ phiến diện, không lường hết khả năng của họ . . .Vận động viên Triều Tiên Yun Choil Om giành được huy chương vàng ở hạng cân của Toàn có sự tiến bộ vượt bậc khi nâng trọng lượng lên đến 26 kg so với một năm trước đó. Trả lời phỏng vấn báo chí anh nói có được thành tích ấy là khát khao chiến thắng khi được vinh dự đại diện cho màu cờ sắc áo tổ quốc.
     Đấu trường thể thao Olympic còn là đấu trường ngoại giao và chính trị. Mọi sự việc lớn, nhỏ đều được thông tin khắp thế giới; có khi những câu chuyện bên lề lại ảnh hưởng tới hình ảnh của  quốc gia, của ngành sản xuất kinh doanh nào đó. Còn nhớ Olympic Bắc Kinh 2008, trước bao vận động viên, nhà báo trên thế giới Trung Quốc đã tiêu hủy một số lương rất lớn chè đen Việt Nam mà theo họ là chè bẩn. Nhưng chính loại chè đó, thương lái Trung Quốc hướng dẫn cho các hộ cá thể các tỉnh miền núi phía Bắc sản xuất rồi mua với giá cao. Sau vụ tiêu hủy ấy, ngành chè Việt Nam lao đao khốn khó trong việc xuất khẩu, thiệt hại về kinh tế không biết bao nhiêu mà tính.
     Chúng ta biết bất cứ sự thành công nào muốn bền vững phải có nền tảng tốt. Học sinh Việt Nam dự thi Toán học Olympic quốc tế thường đứng trong tốp 10. Việc giành được huy chương vàng hầu như năm nào cũng có. Thành công ấy khá bền vững vì chúng ta có nền tảng tốt. Đó là ý thức học tập của học sinh, sự chăm lo của phụ huynh, của ngành giáo dục, của các cấp lãnh đạo và của . . .nhu cầu xã hội khi phần lớn các ngành học đại học, cao đẳng khi thi tuyển đều thi môn toán. Trái lại, bộ môn thể dục trong nhà trường ít được quan tâm, nhiều trường học không tổ chức dạy dỗ bộ môn thể dục đến nơi đến chốn. Mấy năm trước đây giáo viên thể dục thiếu, nhà trường cử những thầy giáo "biết thể dục một chút" đứng lớp. Mục đích là cân bằng mặt bằng lao động tránh dư tiết và 'dạy đầy đủ các bộ môn".Thể dục thể thao động tác sai thì làm gì có thành tích, thậm chí còn gây hại cho người luyện tập. Như thế, thà đừng dạy còn hơn.
     Việc tổ chức Hội khỏe Phù Đổng cấp trường nhiều lúc tổ chức lấy lệ, cho có để khi báo cáo tổng kết năm học đã "hoàn thành chỉ tiêu đề ra". Thậm chí, có hiệu trưởng tuyên bố: "Tham dự Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh có huy chương thì đi, không có thì thôi"(!) Các bộ môn khác tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh chỉ cần đạt một số điểm nhất định là có giải. Giải nhất có khi tới cả chục em, còn giải khuyến khích thì khỏi nói. Trong khi đó giải cho bộ môn thể thao chỉ có một giải nhất, một giải nhì, một giải ba và không bao giờ có giải khuyến khích!
     Một khía cạnh khác là cơ sở vật chất để phục vụ cho thể thao học đường quá thiếu thốn và ít được quan tâm. Thử hỏi toàn quốc có có bao nhiêu trường THPT có sân vận động, bể bơi, nhà thi đấu đa chức năng? Quĩ đất dành cho thể thao học đường quá ít trong khi quĩ đất dành cho môn thể thao "quí tộc" - sân golf lại quá nhiều - một vấn đề đáng để cho các vị lãnh đạo tầm chiến lược suy nghĩ lại.
     Và để có nền tảng rộng, vững chắc làm bệ phóng cho thể thao nước nhà phát triển, để có những tấm huy chương Olympic thể thao nên chăng phải nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ lãnh đạo các cấp, xây dựng phong trào luyện tập thể dục thể thao sâu rộng toàn xã hội và giao nhiệm vụ đào tạo vận động viên cho ngành giáo dục và đào tạo.