Cứ mỗi lần đi dự đám cưới
tôi sợ người ngồi cùng bàn tiệc gắp cho miếng giò lụa. Miếng giò bỏ vào bát rồi
thì phải ăn, cho vào miệng nó cứ bờn bợt như có bột, không dư vị. Về nhà, nói
chuyện với vợ, bảo ngày xưa ăn miếng giò lụa sao mà ngon thế, bây giờ nhạt
hoách. Vợ tôi nói ngày xưa đói nên ăn gì chả ngon. Tôi không cãi lại nhưng vẫn
cứ nghĩ giò lụa ngày xưa ngon hơn.
Một lần đi chợ vì vợ đi
công tác, tôi ngạc nhiên thấy chị hàng thịt bán giò lụa bọc trong bao nilon, đựng
trong khuôn nhôm luộc. Ai muốn mua làm quà thì chị bỏ túi nilon, gói lại bằng lá chuối đã luộc sẵn.
Cứ mỗi độ sau tết nguyên đán hay cuối hè, giò lụa của chị làm không kịp bán,
người ta mua làm quà, vì “giò lụa ở đây ngon hơn trong Sài Gòn”. Tò mò, hỏi chị
làm hàng bán nhiều như vậy phải bao nhiêu người làm, chị cười nói chỉ hai vợ chồng
thôi. Thì ra, làm giò lụa gian nan nhất là khâu giã thì bây giờ cho vào cối xay
điện, bật công tắc cái là xong.
Tôi nhớ hồi còn học cấp
hai, hè về quê đi chăn trâu với ông ngoại, ông kể chuyện cổ tích, chuyện ông nấu
bếp cho mấy ông tây Kiểm lâm thời Pháp thuộc. Tính ông tôi cẩn thận, sạch sẽ
nên ông tây này về nước lại giới thiệu ông tôi cho ông tây khác. Tôi hỏi ông
người tây cũng ăn như mình à, ông nói khác lắm, phần lớn ăn thức ăn chín mềm,
món ăn người Việt mình các ông tây thích chỉ có phở, chả cuốn, giò lụa. Món giò
lụa người tây chỉ thích chấm muối tiêu chanh chứ không chấm nước mắm như mình.
Ông tôi kể hồi chưa lưu
lạc đến Phủ Quì, sinh mẹ tôi và dì Tít, ở quê ông cũng từng phụ làm giò lụa cho
ông Chắt Khương, cháu nội ông Cửu Giò. Cửu Giò không phải là tên ông nội ông Chắt
Khương mà là hàm cửu phẩm vua ban. Người ta gọi phẩm tước gắn với nghề nghiệp
thay cho tên âu cũng là cách vinh danh con người có tâm với nghề nghiệp.
Ngày xưa làm giò lụa
ngon phải chọn được lợn tốt. Ngày thường ông Cửu chọn mua thịt ở những nhà làm
nghề mổ lợn trong vùng. Không chọn được thịt ưng ý ông không làm. Ngày tết ông
dùng thịt lợn nhà ông nuôi. Hơn chục con lợn làm hàng bán mà ngày tết nhà ông Cửu
không còn miếng giò lụa để ăn. Phần vì khách hàng đặt trước, phần vì bạn bè, họ
hàng nài nỉ chia lại làm quà cáp. Mỗi năm hàng đặt một nhiều nên ông Cửu Giò phải
thuê người nuôi lợn, rồi truyền nghề cho bà con họ hàng. Ông Cửu vừa làm hàng vừa
kiêm đầu mối bán hàng cho cả dòng họ. Giống lợn ông chọn nuôi là ỉ lai Mường
Khương, thức ăn chủ yếu là rau lang, củ dong, củ sắn và cám gạo. Ông Cửu nói lợn
ăn thức ăn sống thịt chắc và ngon hơn. Qua rằm tháng hai là ông thả giống, tính
ra đến khi mổ cũng giáp năm. Theo ông Cửu Giò truyền lại thì thịt lợn làm hàng
dưới mười tháng thì giò không dai, thịt lợn già giò không ngọt, cái gì cũng phải
đúng độ của nó. Có lẽ vì thế mà tiếng tăm gò lụa dòng họ ông bay tới tận kinh
thành Huế.
Lợn làm thịt giói giò
phải được tắm sạch, phản ra thịt phải cao ráo. Lợn mổ xong, thịt tuyệt đối
không rửa lại. Lọc thịt nạc vai, thịt đùi, thái miếng cỡ bao diêm cho vào cối
đá giã ngay, mỗi cối đúng một yến. Người giã hai tay cầm hai cái chày lõi gỗ
mít, giã cho đều, không mạnh, không nhẹ. Giã giò phải có sức lại phải dẻo dai,
cho nên thanh niên có anh vật ngã trâu nhưng giã cối giò có khi không trôi.
Nghe tiếng giã ông Cửu biết cối giò nào ngon, cối giò nào hỏng. Giã liên tục gần
ba tiếng đồng hồ, xem chừng thịt đã mịn, lúc này thúc nước mắm ngon Vạn Phần,
giã tiếp. Cách thúc nước mắm phải từ từ, nhiễu từng giọt một. khi thịt không
dính vào chày nữa là thành giò sống, lúc này người giã mới có thời gian lau mồ
hôi mặt, uống bát nước chè xanh pha mật mía cho tỉnh táo, lại sức.
Trước lúc gói giò phải
chuẩn bị hạt tiêu. Ông Chắt Khương dạy ông ngoại tôi “nướng” tiêu bằng cách cho
hạt tiêu vào cái bát sứ, gắp cục than hoa bỏ vào lắc tròn nhẹ. Khi cảm thấy bát
sứ ấm lên là tiêu “chín”. Tiêu gói giò ngon nhất phải là tiêu Cùa – Quảng Trị.
Hạt tiêu nhỏ, đều, chắc, cay ngọt và rất thơm. Có lẽ cái rét, cái nóng, cái gió
thất thường của vùng đất khô cằn mà dây tiêu Cùa chống chọi cho hạt thơm ngon
hơn chăng?
Giò lụa chính gốc dòng
họ ông Cửu được gói bằng khuôn, trăm cái như một. Khuôn là cái ống tre cỡ vừa
phải, cắt dài đúng gang tay rướn người lớn rồi chẻ đôi. Dùng thìa múc giò sống
ép vào từng nửa miếng khuôn, cứ nửa đốt ngón tay lại cho một hạt tiêu. Trước
khi áp hai nửa khuôn lại, cho thêm một sợi mỡ gáy lợn, bằng chiếc đũa chần qua
nước sôi để ráo. Ép hai miếng khuôn vào cho chặt, để xuống lá chuối bày sẵn rồi
tách khuôn ra. Lá chuối gói giò phải là lá chuối hột, lớp trong cùng lá non, ba
lớp lá ngoài là lá già nhưng chưa ngã màu. Lạt giang chẻ mỏng buộc lại khoanh
này cách khoanh kia chừng đốt ngón tay. Giò gói chặt, kín thả vào nước không chìm là đạt yêu cầu. Khâu luộc giò nhẹ
nhàng nhưng cũng đòi hỏi sự chuyên chú. Giò luộc phải đều lửa, dùng củi duối là
tốt nhất. Củi duối cháy trầm trầm, ít khói, từ lúc sôi đến tàn tuần nhang là được.
Vớt giò ra ngâm ngay vào nước lạnh, cầm cây giò lên không còn thấy nóng thì vớt
hết ra, treo lên cho ráo nước, thế là xong!
Bóc lớp lá, cây giò có
màu xanh nhạt, thơm nức mũi. Bóp ngang khúc giò cảm giác có độ đàn hồi. Cắt giò
ra từng miếng, độ dày phân nửa đốt ngón tay, một màu hồng mịn điểm một đốm hoa
trắng trong của mỡ. Đứng cách tường nhà một mét, cầm miếng giò bằng ba ngón tay
cái, trỏ và giữa, mặt cắt ở ngoài, ném mạnh vào, miếng giò không rơi mới thật
là giò làm đúng chuẩn. Làm giò lụa ngay tại cung đình rồi làm phép “thử” như đã
nói, người nghệ nhân mà ông ngoại tôi không biết tên, được vua ban tặng hàm cửu
phẩm. Hàm ấy thay tên ông, thành thương hiệu “vang bóng một thời”.
Kết thúc câu chuyện về
cách làm giò lụa của dòng họ ông Cửu Giò, ông ngoại tôi chép miệng: “Rồi nghề
đó mất đi trong thời kháng chiến chống Pháp. Cái đợt cải cách ruộng đất, ông Chắt
Khương bị đấu tố là giai cấp bóc lột, bị tịch thu gia tài, con cháu không biết
về đâu nữa”.
Tháng trước, về Bắc ăn cưới
con ông anh bên ngoại, bàn tiệc cũng các món như trên phố. Cái khác là mỗi bàn
một chai rượu nút bằng lá chuối khô. Nhấp ly rượu thơm nồng dư vị ngòn ngọt nơi
cuống họng. Gắp miếng giò lụa, chấm nước mắm nhất Vạn Phần, bỏ vào bát cho tôi,
anh ra hiệu ăn thử. Miếng giò thật giòn, dai và rất thơm. Nhai chầm chậm, cái cảm
giác ngọt của thịt, cay nồng của tiêu, mằn mặn thanh của nước mắm hòa dư âm rượu
nếp, giữa không khí se se lạnh ngon không thể tả. Anh tôi cười: “Của nhà làm đấy,
không biết được mấy phần của ông Cửu Giò”.
Anh nói tôi mới nhớ
chuyện cũ ông ngoại kể. Tôi chưa kịp lên tiếng thị vị giám đốc Sở Văn hóa – Du lịch,
sếp của con anh lên tiếng:
- Tôi xin đăng ký bao
tiêu hết sản phẩm nếu bác làm giò lụa như thế này để bán!
Anh nháy mắt với tôi, cười cười trả lời vị giám đốc:
- Cảm ơn anh đã quan tâm,
tôi cũng tính làm nhưng phải đợi quyết định của mẹ cháu đã.
Thèm quá, bao giờ cho đến ...ngày xưa(!?)
Trả lờiXóa