Cũng khá lâu rồi mới nhậu
với anh, bởi anh theo công trình ở xa. Hỏi thăm sức khỏe, việc làm của mấy
cháu, công việc ở trường của tôi xong, anh nói:
- Ông Thắng kể chuyện
tiếu lâm đi, mai tôi lên kể lại cho chúng nó nghe. Ở cái nơi khỉ ho cò gáy
không điện đài, gọi cú điện thoại phải đi bộ ba cây số mới có sóng, nên buồn lắm,
tối không nhậu không biết làm gì, mà nhậu nói chuyện tiếu lâm mới vui.
Hoan “bọ ngựa” cười hỏi:
- Sao đợt trước về anh
bảo ở trên ấy cái gì cũng có.
- Có là có mồi nhậu. Thịt
rừng dễ kiếm, còn hải sản chủ yếu là đồ khô.
Đức râu xoa cằm:
- Công việc của anh Tuấn
bây giờ làm em nhớ lại chuyện “Trấn thủ lưu đồn”. Chuyện
ấy anh Thắng kể với tụi em hồi chưa biết anh.
Thực tình, tên chuyện tôi mới nghe lần đầu chứ
kể lần nào đâu. Nháy mắt với tôi, cạn một hơi hết cốc bia, Đức râu kể: “Ngày
xưa đi lính trấn thủ biên giới khổ lắm. Khổ vì suốt ba năm xa vợ con, bóng dáng
đàn bà con gái cũng không có. Một anh lính mãn hạn trấn thủ lưu đồn, được về
phép, đang bữa rượu tẩy trần, bố vợ hỏi cuộc sống lính thú có thiếu thốn gì
không, anh ta ngâm nga như đang ở nơi đồn trú:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Cái gì
cũng có, cái….ồn thì không!
Ông bố vợ dằn ly rượu xuống phản, nói “mi nói lại tau nghe coi”. Giật
mình vì bị hớ, anh ta “chữa” lại: “Ba năm
trấn thủ lưu đồn/ Cái gì cũng có, mộc tồn
thì không!”. Bố vợ lại hỏi: “Mộc tồn là cấy chi?” anh ta khoan thai uống cạn
ly rượu trả lời: “Thịt chó bố ạ. Mộc là cây, tồn là còn, cây còn có nghĩa là
con cầy”. Ông bố vợ cụng ly cười khà khà: “Gớm, anh đi có mấy năm mà nói chuyện
chữ nghĩa nhẩy”.
Tôi không biết đây có
phải là dị bản không nữa, cái cách nhại giọng ông bố vợ của Đức râu làm chúng
tôi bật cười. Anh Tuấn bảo:
- Chú mày chỉ được giỏi
cái khoản ấy!
Đức râu xoa lại xoa cằm, giọng tỉnh bơ:
- Cho nên vợ em đẹp gái
nhất nhà. Chả được như ai rặn mãi cũng chỉ được một con bướm. Giang hồ đồn đại
súng đeo lủng lẳng dọa chị em chơi chứ làm gì có đạn.
- Con nhiều ít, trai
gái không quan trọng. Quan trọng là nuôi dạy làm sao cho đến nơi đến chốn. Đến
tuổi như anh, sợ chú mày teo mất chứ đeo lủng lẳng còn may.
Hoan “bọ ngựa” cười:
- Hôm trước em uống
cafê với chú Tám bí thư. Không ngờ ổng rất tiếu lâm, kể bao nhiêu chuyện thời
chống Mĩ, em nghe rồi quyên mất. Có một chuyện em thấy hay quá nên chép vào ruột
bao thuốc lá nên thuộc. Chuyện là thế này: “Hồi kháng chiến chống Mĩ, có một
anh bộ đội lái xe mới cưới vợ được một tháng phải vào phục vụ chiến trường Quảng-
Đà (Quảng Nam – Đà Nẵng). Đến phà sông Gianh thì bị thương do tàu bay Mĩ bỏ
bom. Khổ một nỗi là bị mảnh bom chặt đứt “cái đó”. Nằm ở trạm Quân y tiền
phương anh ta viết thư về cho vợ. Đọc thư chị vợ hiểu là chỉ vì thiếu “cái đó”
nên ra quân anh sẽ không về quê nữa. Bức thư anh ta viết như sau:
Anh đi chiến dịch Quảng – Đà
Bị
tàu bay Mĩ bắn trên phà sông Gianh
Nói
chung cơ thể nguyên lành
Riêng
cái “cần số” tan tành rồi em!...
Chị vợ viết thư trả lời, rất rõ ràng, và tỏ ra rất hiểu biết về mặt y học:
“Cần số” hỏng có lo chi
Miễn
rằng anh giữ được “bi” là mừng
Ngoài
này có bác sĩ Tùng
Giỏi
làm cần số to đùng như xưa!
Trước chữ “như” có một chữ bị xóa, cả trạm Quân y không ai đoán ra chị vợ
viết chữ gì rồi mới xóa, thay bằng chữ “như”. Chuyện lọt tai bà cấp dưỡng, bà
ta cười bảo: đó là chữ “hơn”. Ý là làm “cái đó” nó vẫn tốt, không sao cả; nhưng
sợ chồng hiểu nhầm, chê không “hoành tráng” nên sửa lại thôi mà. ..”
Chúng tôi cười nghiêng
ngã, lúc sau anh Tuấn nói:
- Chuyện ấy đàn bà tinh
tế thật!
Cho đến lúc tàn cuộc nhậu,
tôi không kể câu chuyện tiếu lâm nào nữa, nghĩ cứ tức cười về sự liến láu trong
dùng từ của anh lính thú và chị vợ bộ đội. Tôi nghĩ, nếu có điều kiện sưu tầm
chuyện tiếu lâm thời kháng chiến cũng là việc nên làm. Mãi suy nghĩ, đến cổng
nhà lúc nào không hay. Anh Tuấn dừng xe cho tôi xuống, nói một câu thay lời “tạm
biệt”:
- Chuyện chúng nó kể
hôm nay đúng là tiếu lâm quá, tiếc là tôi không có khiếu kể như ông. Hay là ông
đưa lên blog giùm tôi đi.
Quá hay! Cảm ơn Pác!
Trả lờiXóa