Năm
1955, Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Văn Báu) viết
về anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa mười ba lần dời làng chống Pháp, được tặng Giải nhất Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
(1954 – 1955). Chất sử thi và cảm hứng lãng mạn khắc họa hình tượng đồng bào
Tây nguyên đánh Pháp tiếp nối cuồn cuộn sang thời kì chống Mĩ. Mười năm sau Đất
nước đứng lên truyện ngắn Rừng xà nu ra đời trong hoàn cảnh đế
quốc Mĩ đổ 30 vạn quân vào miền Nam nước ta. Truyện xứng đáng được xem là mẫu mực
cho các nhà văn trẻ học tập bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn tài năng, tâm huyết của
tác giả với việc phản ánh hiện thực cách mạng, là bản sử thi bi tráng của đồng
bào Tây nguyên.
Nhân
vật trung tâm của truyện là Tnú. Qua câu chuyện kể về cuộc đời anh, Nguyên Ngọc
khéo léo đồng hiện chuyện dân làng Xô Man nổi dậy đánh giặc. Chi tiết, sự kiện
đan cài, dồn nén rất chặt chẽ nhưng không làm cho người đọc cảm giác nặng nề bởi
tác giả tinh tế, chọn lọc trong miêu tả, sử dụng từ ngữ và tài hoa trong dẫn
chuyện.
Không
gian bao trùm truyện là rừng xà nu: “Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm
ngực lớn của mình ra che chở cho làng…”. Một cánh rừng trong sự hủy diệt điên
cuồng của giặc, “không có cây nào không bị thương”, vẫn bao bọc, che chở cho
nhau, cho làng, là cái nền đối ứng, tương đồng với dân làng Xô
Man trong những năm tháng đánh giặc. Những chi tiết “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn
xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” là sự sống mãnh liệt, kế
tục, bất khuất của rừng xà nu. Giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết
bà Nhan chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì nuôi cán bộ cách mạng thì Tnú và Mai
tiếp tục công việc ấy. “Cũng ít có loại
cây ham ánh sáng mặt trời đến thế . Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,
thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luống lớn thẳng tắp…” thì dân làng Xô Man tuyệt đối tin tưởng,
trung thành với lý tưởng cách mạng. Câu nói của Tnú trả lời cán bộ Quyết: “Cụ Mết nói: cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước
này còn” và hành động quyết tâm học tập để sau này thay anh Quyết làm cán bộ
là những hình tượng tương ứng đẹp. Rồi Mai che chở cho đứa con khi bị giặc tra
tấn; Tnú nhảy xổ vào giữa bọn lính, “Mai ôm đứa con chui vào ngực anh”, “hai
cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc chắn của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai” phải
chăng là sự sóng đôi của: “Cứ thế hai ba
năm nay rừng và nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”?
Xây
dựng chi tiết, hình tượng tương đồng giữa rừng xà nu và dân làng Xô Man, nhà
văn Nguyên Ngọc gợi cho người đọc suy nghĩ trong cuộc kháng chiến này thiên
nhiên với con người là một. Dân làng Xô Man đứng lên đánh giặc, rừng xà nu cũng
đánh giặc. Đọc Rừng xà nu, chúng ta hiểu hơn những câu thơ Tố Hữu viết trong
bài Việt
Bắc:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta
cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù.
Câu
kết của đoạn mở đầu – miêu tả rừng xà nu, tác giả viết: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông
ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới
chân trời”, vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh trùng điệp của rừng xà nu.
Sau câu chuyện cuộc đời Tnú, chuyện dân làng Xô Man đứng lên đánh giặc, Nguyên
Ngọc viết câu kết truyện: “Ba người đứng ở
đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu
nối tiếp chạy đến chân trời”. Chỉ một từ “rừng xà nu” thay cho “đồi
xà nu”, người đọc cảm nhận được sự lớn mạnh, vững chãi, hùng vĩ hơn. Và đấy
cũng chính là sự trưởng thành của Tnú, Dít, thằng Heng nói riêng, dân làng Xô
Man nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ dưới ẩn ý tài hoa của nhà văn. Đó
chính là kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng. Trong văn học kiểu
kết cấu này được “mặc định” là sự thống nhất, xuyên suốt chuyển tải tư tưởng
tác phẩm. Sử dụng nhuần nhuyễn cùng lúc hai kiểu kết cấu trong một truyện ngắn
là chuyện hiếm trong văn học, chỉ riêng điều này thôi cũng đã thể hiện tài năng
tác giả.
Những
năm tháng trong quân ngũ Tnú luôn nhớ về làng nhưng không phân định rõ điều gì
gây ấn tượng sâu sắc nhất. Cho đến khi được nghỉ phép một đêm, về tới đầu làng,
nghe tiếng chày giã gạo, Tnú mới ngộ ra: “Phải rồi, chính tiếng chày của dân
làng, của mẹ, của Mai, của Dít mỗi chiều quen quá, thân thương quá”. Tnú về
làng tạo nên một sự kiện lớn. Nghe tin Tnú về, đàn ông, thanh niên nhảy phốc từ
trên sàn xuống, đám trẻ con thì ùa ra, các cô gái túm tụm nhau lại cười rúc
rích. Cảm động nhất là chi tiết bà cụ Leng bò ra cầu thang, chửi yêu: “Con
cháu, ma bắt mày, sao mày không đợi tau chết rồi hẵng về”. Rồi đằng sau cái vẻ
nghiêm nghị của Dít – bí thư, chính trị viên xã đội đối với công việc, là lời tự
thú: “Bọn em, miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Tình
cảm dân làng Xô Man dành cho Tnú là tình cảm gia đình bởi anh xứng đáng với niềm
tin yêu đó. Trong đêm Tnú về, dân làng tụ tập nhà cụ Mết, “bên ngoài lấm tấm một trận mưa đêm, rì rầm như gió nhẹ”; khác với
giọng nói “ồ ồ dội trong lồng ngực”
thường ngày, tiếng nói của cụ rất trầm:
- Ông bà già thì biết rồi.
Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa biết. Còn lũ con nít thì chưa biết. – Ông cụ
trừng mắt nhìn bọn trẻ, chúng cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa
nào đứa ấy ngồi im thin thít, dán mắt vào miệng ông cụ - Tnú, anh Tnú của chúng
mày về rồi đó. – Ông cụ đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú – Anh Tnú mà tao đã kể
cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi Giải phóng quân
đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ ký
người chỉ huy, chị bí thư coi rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết
sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng
ta. Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người
Strá ai có cái tai, cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.
Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…
Bên
bếp lửa bập bùng, cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú như đang kể sử thi. Mà đúng là
sử thi thật. Sử thi nói về việc lớn của cộng đồng, nói về chiến công của người
anh hùng, chiếu theo cách hiểu ấy, thì dân làng Xô man, Tnú là những nhân vật
trong sử thi – sử thi chống Mĩ.
Xây
dựng hình tượng tập thể anh hùng, ngoài việc miêu tả những chiếc công, để thuyết
phục người đọc, tác giả phải khéo léo lý giải nguyên nhân những chiến công ấy.
Tinh thần đoàn kết, đùm bọc, san sẻ với nhau trong khó khăn gian khổ của dân
làng Xô Man được tác giả khéo léo chọn lọc, chỉ vài chi tiết, hình ảnh nhưng
dung dị, chân thật: “Tnú mở ống lương
khô, xúc cho cụ Mết một muỗng muối. Ông cụ bảo: - Tau cũng còn nửa lon muối của
huyện thưởng cho con Dít ngày nó đi đại hội chiến sĩ thi đua, nó về chia đều
cho mỗi bếp một phần. Nhưng cái đó để dành cho người đau. Còn cái này mày cho
thì tau ăn”.
Lẽ
sống vì cộng đồng của tất cả người dân làng Xô Man trong kháng chiến được nâng
lên tầm cao hơn: sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Vì thế, dân làng Xô Man
tự hào suốt mấy năm qua nuôi cán bộ, người bị giết, bị bắt, bị tra tấn dã man
nhưng không một cán bộ cách mạng nào bị giặc giết, giặc bắt trong địa hạt của
làng.
Thương
yêu, san sẻ với nhau là thế nhưng dân làng Xô Man từ lớn tới nhỏ, từ già đến trẻ
tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc giữ gìn kỷ luật. Tnú là người con của dân làng
Xô Man, về thăm làng một đêm cũng phải trình giấy phép. Khi chị bí thư xem đi
xem lại tờ giấy phép thì mọi người yên lặng chờ đợi. Chỉ khi Dít trả lại tờ giấy
phép cho Tnú, xác nhận giấy phép có chữ ký của người chỉ huy thì tiếng cười nói
mới rộ lên. Cái không khí “im lặng chờ đợi” và “rộn lên chật cả căn nhà nhỏ” phản
ánh tâm trạng âu lo của dân làng: sợ Tnú nhớ làng quá mà vi phạm kỷ luật quân đội.
Niềm vui của mọi người là niềm tự hào của cụ Mết, khi kể chuyện Tnú, ông cụ lại
nhắc lại lời khẳng định của Dít về cái
giấy phép một lần nữa.
Ngay
cả bữa cơm đón người xa về của cụ Mết vẫn ghế rất nhiều củ pom chu. Cụ nói với
Tnú như thanh minh: “Năm nay làng không
đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được ba
năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi, đánh thằng Mĩ phải đánh dài”. Nguyên tắc gìn
giữ kỷ luật còn được phản ánh trong đời sống thường ngày, buổi chiều tối, cụ Mết
nhắc bọn trẻ con ra con nước đầu làng tắm “kẻo chị Dít phê bình”. Dít là con
cháu trong làng, thay Tnú làm cán bộ, thế nhưng cụ Mết – người chỉ huy dân làng
Xô Man đứng lên, mỗi khi nhắc đến đều thể hiện sự tôn trọng. Dân làng Xô Man
coi việc giữ gìn nguyên tắc kỷ luật là lẽ sống. Thấm sâu vào máu thịt, lẽ sống ấy
được nâng lên thành lòng trung thành, dũng cảm. Một lần đi liên lạc, bị giặc bắt,
sau mỗi câu hỏi: “đứa nào là cộng sản” là một nhát chém vào lưng, Tnú chỉ tay
vào bụng, trả lời bọn giặc: “Cộng sản ở
đây này”. Lần nhảy xổ ra cứu mẹ con Mai, anh lại bị bắt, bị tra tấn. Bọn giặc
dùng nhựa cây xà nu tẩm giẻ quấn mười đầu ngón tay đốt. Đau đớn thể xác gần như
đã tột cùng ấy, trong suy nghĩ, anh vẫn kiên trung nguyên tắc cách mạng: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không thấy lửa cháy
mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Anh
không kêu rên. Anh Quyết nói: “người cộng sản không thèm kêu van”. Tnú không
thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết
ơi! Cháy! Không! Tnú sẽ không kêu! Không!”
Ngoài kiểu tra tấn,
hành hạ bằng chém, đốt, roi vọt, bọn giặc còn dùng đòn tra tấn tâm lý. Đó là
đánh vào nỗi sợ hãi. Khi bắt được con Dít đi tiếp tế cho Cụ Mết và đám thanh
niên ở ngoài rừng về, chúng không dánh mà “lên
đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai,
sém tóc, cày đất xung quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tợt từng mảng. Nó
khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng
lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật
lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.
Tất
cả sự chịu đựng đều có giới hạn, trước tội ác tày trời của giặc phải đứng lên để
tự cứu mình. Sau khi giết hết bọn lính, cứu được Tnú, dân làng Xô Man khởi
nghĩa. “cụ Mết chống giáo xuống sàn nhà,
nói vang vang: - Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ,
người đàn ông, đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một
cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa
lên!”
Khẩu
lệnh: “Đốt lửa lên!” là lời tuyên chiến
của dân làng, núi nước này không còn chịu đọa đày, tối tăm nữa. Câu nói của cụ
Mết thời điểm ấy thấm đẫm tư tưởng, đường lối đánh giặc từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Hồ Chủ tịch, ngày 19 tháng 12 năm 1946:
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng
lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước.
Truyện
ngắn Rừng
xà nu phân chia ranh giới ta – địch rất rõ ràng. Hình tượng đồng bào Strá
làng Xô Man được khắc họa sống động, nhất là tính cộng đồng cao, không vụ lợi mà
rất hồn nhiên. Cụ Mết, một con người từng trải, kiên cường là thế nhưng vẫn rơi
những giọt nước mắt như nhìn tấm lưng Tnú đầy sẹo hay câu hỏi trong bữa cơm thật
cảm động: “Mười ngón tay mày vẫn cụt như
thế à? Không mọc ra được nữa à?...”
Chiến
tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, bây giờ đọc lại Rừng xà nu vẫn se lòng, hân
hoan, rạo rực. Ở thời điểm truyện ngắn được in ra, ngoài cảm xúc đã nói, còn có
thêm niềm tin từ thông điệp truyện. Đó là giải đáp câu hỏi lớn: Có dám đánh Mĩ? Đánh Mĩ bằng gì?
Sức
lôi cuốn của Rừng xà nu ngoài cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật miêu tả, dẫn
chuyện không thể không nói đến tài năng gợi sự tưởng tượng, suy đoán cho độc giả.
Chỉ vài chi tiết như: Tnú nạt Mai “cứ tác như con mang” trên đường đi nuôi cán
bộ, hay việc học chữ thua Mai, chuyện anh vượt ngục trở về gặp Mai nơi con nước
đầu làng, thế thôi, mà tâm tưởng người đọc hiển hiện một tình yêu lứa đôi đẹp,
dường như họ sinh ra là để dành cho nhau. Rồi sau ba năm “đi lực lượng” về thăm
làng, Tnú bất ngờ về Dít – cô em vợ: “Mai!
Trước mắt anh là Mai đấy! Anh không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế. Cái
mũi hơi tròn của Dít ngày nay đã thẳng và nhỏ lại, hai hàng lông mày đậm đến
che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Dít nhìn Tnú bằng đôi mắt ấy rất
lâu”, câu nói của Dít sau khi xem tờ giấy phép: “Thôi cũng được. Về một đêm cho
làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi” và chị
cùng cụ Mết tiễn Tnú ra đi, người đọc thầm nghĩ chắc chắn họ sẽ đến với nhau,
và chỉ như thế mới là cái kết có hậu.
Tình
yêu thương của tất cả mọi người trong cộng đồng xuyên suốt tác phẩm với những
chi tiết chồng chi tiết, đan cài với nhau. Người đọc bị cuốn vào mạch truyện
khi cao trào, lúc trầm lắng, căm hận rồi yêu thương, sảng khoái rồi trăn trở…nhưng
hết sức logic, chặt chẽ. Độ nén của truyện tương đương một cuốn tiểu thuyết, vậy
nên, yêu Rừng xà nu người đọc không thể lướt qua, “cưỡi ngựa xem hoa” mà
cần chậm rãi nghiền ngẫm từng chi tiết, hình ảnh, câu văn.
Bài viết hay, cảm ơn tác giả.
Trả lờiXóaMới mẻ và sâu sắc, cảm ơn anh.
Trả lờiXóaBài viết sâu, thuyết phục. Cảm ơn tác giả!
Trả lờiXóaCảm ơn tác giả về bài viết!
Trả lờiXóa