Truyền thuyết An
Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy dung lượng không dài nhưng phản ánh khá đầy
đủ quá trình mất nước – tan nhà xoay quanh ba nhân vật - một gia đình, trong cuộc chiến tranh xâm lược
của Triệu Đà. Đằng sau những bi kịch số phận ấy là bài học tầm vóc quốc gia,
trường tồn cùng lịch sử dân tộc.
1.
An Dương Vương – hai mặt sáng tối của người
anh hùng.
Truyền thuyết
không nói rõ quá trình chinh phục Văn Lang để lập nên nhà nước Âu Lạc của An
Dương Vương đã diễn ra như thế nào mà nhấn mạnh hơn chi tiết việc dựng nước. Chọn
việc xây thành để nói việc dựng nước của An Dương Vương, cha ông ta xưa đã dùng
thủ pháp ẩn dụ sâu sắc. Xây thành trì là để bảo vệ đất nước cũng như việc xây dựng
pháp chế để bảo vệ chế độ, đó là công việc tất yếu của triều đại, chính thể nào
mới lên cầm quyền thực hiện. Thế nhưng “thành cứ xây lên rồi lại đổ” mà không
hiểu lẽ tại sao? Hết cách, An Dương Vương trai giới, lập đàn cầu bách thần. Sau
đó, Người gặp được “một ông lão râu tóc bạc phơ” bảo sẽ có sứ Thanh Giang đến
giúp. Như vậy tấm lòng chân thành của An Dương Vương đã động đến đất trời, thần
linh - khi việc cầu đảo thuận ý trời, hợp lòng dân.
An Dương Vương
mong muốn xây dựng nhà nước Âu Lạc với nền thái bình thịnh trị. Những buổi đầu
sự nghiệp ấy hết sức gian nan, gặp muôn vàn trắc trở bởi “âm hồn vua quan, tướng
sĩ triều đại trước” phá phách. “Âm hồn” ấy theo cách nhìn triết học
hiện đại, đó chính là quyền lợi của những người gắn với vương triều
trước bị mất, là tư tưởng “tôi trung không thờ hai chúa” còn rơi rớt lại.
Giãi bày tấm
lòng mình (trai chay – cầu khấn), An
Dương Vương đã có xuất phát điểm dựng nước từ cái Tâm, chữ Tín
nên sớm thu phục được lòng người mà tác giả dân gian đã hình tượng hóa bằng sự
việc được Rùa Vàng (sứ Thanh Giang) giúp sức tiêu diệt con gà trắng chín đuôi –
“âm hồn” vua quan tướng sĩ triều đại trước, xây dựng được Loa Thành.
Như vậy, về công
việc dựng nước, An Dương Vương đã hoàn thành xuất sắc, thuận ý trời, hợp lòng
dân. Thành Cổ Loa vững chắc sừng sững được ghi chép trong sử sách Trung Hoa là
Côn Lôn Thành. Và thành trì chống giặc ngoại xâm ấy, bằng tấm lòng chân thành,
An Dương Vương xây dựng vững chắc trong tấm lòng mỗi con dân Âu Lạc.
Một mặt sáng nữa
cần nói đến là An Dương Vương biết nhìn xa trông rộng. Thành trì kiên cố chưa
phải là bảo đảm cho việc giữ nước. Tâm sự của nhà vua với thần Kim Quy: “Nhờ ơn
thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài lấy gì mà chống?” cho thấy rõ điều
đó. Sự việc thần Kim Quy rút móng tặng An dương Vương, rồi An Dương Vương sai
tướng Cao Lỗ chế nỏ thần đây chính là sự kết hợp trí tuệ, sức lực để hiện đại
hóa vũ khí của quân và dân. “Ý dân là ý trời”, “hợp lòng dân là thuận ý trời”.
Sứ Thanh Giang chính là biểu tượng trí tuệ, sức mạnh của nhân dân. Móng
vuốt là một phần xương thịt của thần và đó cũng chính là của nhân dân. Có cuộc
chiến tranh nào mà nhân dân không đổ xương máu?
Vậy nên, Triệu
Đà đem quân xâm lược Âu Lạc lần thứ nhất thất bại thảm hại, An Dương Vương chỉ
“bắn một phát giặc đã tan ngay”. Chiến thắng ấy là sự đoàn kết của toàn dân tộc
cộng với vũ khí hiện đại, thành trì vững chắc (thành trì này xin được hiểu hai
nghĩa như đã nói ở trên).
Mặt tối của người
anh hùng dân tộc là say sưa với chiến thắng, thỏa mãn với chiến thắng chống
quân xâm lược, từ đó nảy sinh tư tưởng chủ quan khinh địch, mất cảnh giác, kiêu
ngạo trước kẻ thù. Minh chứng rõ ràng nhất thể hiện qua các sự việc:
-
Chấp nhận giảng hòa với Triệu Đà, nhận Trọng Thủy
làm con rể.
-
Khi Trọng Thủy về thăm cha, chiến tranh xảy ra
nhưng vẫn không một mảy may nghi ngờ.
-
Khi Triệu Đà phát động cuộc chiến tranh xâm lược
lần thứ hai, đã tiến sát chân thành, An dương Vương vẫn “điềm nhiên đánh cờ”, nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”.
Chỉ khi nỏ thần
mất hết linh nghiệm, An Dương Vương mới cùng Mị Châu chạy trốn. Chạy không khỏi,
quân giặc truy sát ngày một gần, An dương Vương biết đâu kẻ chỉ đường cho giặc
chính là cô con gái yêu của mình. Cùng đường, khấn sứ Thanh Giang cứu, Rùa Vàng
hiện lên thét: “Giặc ngồi sau lưng nhà vua đó” thì An dương Vương mới hiểu cơ sự!
Truyền thuyết không miêu tả nỗi lòng đau đớn của An Dương Vương như thế nào khi
chính tay mình chém chết con gái yêu. Hành động oan nghiết ấy cho đến nay vẫn
nhói lòng dân tộc. Nhói lòng nhưng phải chấp nhận vì hoàn cảnh khi ấy là hoàn cảnh
khốc liệt nơi chiến trường, không có chỗ cho sự cân đong đo đếm giữa lý và
tình. An Dương Vương giết Mị Châu là hành động của vị vua giết kẻ nối giáo cho
giặc. Cả dân tộc đau thương trong chiến tranh không lý gì gia đình công dân số
một đất nước lại ven toàn. Quy luật nghiệt ngã nước mất nhà tan không buông tha
một riêng ai.
Bài học mất nước
nhìn từ góc độ trách nhiệm người lãnh đạo – An Dương Vương, thể hiện ở những điểm:
-
Nuông chiều con cái quá mức, thiếu trách nhiệm
trong việc bảo vệ bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
-
Tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh vũ khí trong
khi vũ khí không còn là bí mật nữa (đã đem dùng, kẻ thù đã biết).
-
Biết Triệu Đà là kẻ thù nhưng vẫn chấp nhận để
con trai hắn là Trọng Thủy ở rể để thực hiện chính sách hòa hoãn hòa bình. Đặt
niềm tin vào kẻ có dã tâm xâm lược đây chính là biểu hiện của sự ngây thơ chính
trị.
Nước Âu Lạc rơi
vào tay giặc trách nhiệm thuộc về An Dương Vương – người đã đánh giặc đến hơi sức
cuối cùng hoặc là tuẫn tiết, đó mới chính là sự thật lịch sử. Đánh giá công
lao, tinh thần yêu nước của Người, cha ông ta đã sáng tạo chi tiết “vua cầm sừng
tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước vua đi xuống biển” – tức là tiếp tục sống
trong lòng “nước”, lòng dân, hết sức ý nghĩa, nhân văn. Những sai lầm của
An Dương Vương, suy cho cùng, tha thứ được, An Dương Vương là ông vua nhưng
cũng là con người.
2.
Công chúa Mị Châu – “trái tim lầm chỗ để
trên đầu”.
Mị Châu là nàng
công chúa trong trắng, ngây thơ được vua cha hết mực yêu chiều. Cuộc sống nhung
lụa gấm vóc nơi cung cấm, các nghi lễ triều đình tách nàng ra khỏi đời sống hiện
thực xã hội, nàng không hiểu mặt trái của xã hội, lại càng mơ hồ về chính trị.
Truyền thuyết
không đề cập đến hoàng hậu, có lẽ vì mồ côi mẹ quá sớm nên nàng được vua cha dồn
cho tất cả tình thương yêu chăng?
Khi kết duyên
cùng Trọng Thủy, Mị Châu có thêm bầu bạn tâm sự, lại thêm có người yêu chiều
nên sống trong mái ấm hạnh phúc ấy nàng không hề để ý chuyện gì khác. Mị Châu
tin tình cảm của Trọng Thủy đối với mình cũng hết mực chân thành, đằm thắm như
bản thân mình đối với Trọng Thủy. Tình cảm lứa đôi đẹp đẽ của Mị Châu đáng được
ca ngợi.
Không trách Mị
Châu được, vua cha đã chon Trọng Thủy cho nàng, vua cha hết lòng tin tưởng con
rể thì lý gì nàng nghi ngờ, phân vân khi Trọng Thủy hỏi xem nỏ thần? Đắng cay
nhất, đau khổ nhất của đời người chính là bị lợi dụng lòng tin mà Mị Châu là một
trong số đó.
Tình yêu Trọng
Thủy quá lớn nên Mị Châu không phát hiện con người thật của Trọng Thủy khi hắn
lộ sơ hở: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta
trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại
tìm nàng biết lấy gì làm dấu?”.
Nghe thế,Mị Châu
chỉ chú ý mấy chữ “ta lại tìm nàng biết lấy gì làm dấu?”. quên đi trước đó là “hai
nước thất hòa”. Không mảy may suy
nghĩ vì sao khi Trọng Thủy xa cách thì chiến tranh xảy ra mà chỉ nghĩ làm sao
tìm được nhau. Quá yêu Trọng Thủy – yêu gia đình nhỏ của mình nên vận mệnh quốc
gia bị che mờ. So sánh sự việc này của nàng Mị Châu xưa với cô du kích trạc tuổi
nàng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Tố Hữu có tứ thơ rất hay:
Có cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù
Mĩ hại trăm nhà lo diệt trước
Rắn – mình em chịu có sao đâu.
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
(Tâm sự)
Khi Trọng Thủy chưa
biết cách nào ‘tìm ra nhau”, Mị Châu đã nói: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảch
biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo lông ngỗng thường mặc trên mình, đi
đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường đểv làm dấu, như vậy có thể tìm được
nhau”. Đúng là một giải pháp hết sức thông minh, chỉ rắc “ở ngã ba đường”, nếu
rắc dọc đường thì Trọng Thủy có theo dấu cũng chỉ được một quãng mà thôi!
Chỉ khi nghe tiếng
thét của Rùa Vàng – phán quyết của nhân dân, Mị Châu mới bừng tỉnh, hối hận vì đã
vô ý nối giáo cho giặc. Lời khấn và cái chết của nàng chứng thực cho Mị Châu
chưa bao giờ có ý nghĩ phản bội tổ quốc. Hành động nối giáo cho giặc chỉ là sự
lầm lỡ của một trái tim mù quáng. Lúc này chỉ có cái chết mới giải thoát nỗi
giày vò ân hận do chính nàng gây ra; và cũng chỉ có cái chết mới minh chứng cho
tâm hồn trong sáng của nàng.
Chi tiết ngọc
trai được rửa nằng nước giếng Cổ Loa sáng rực, đó không phải là sự gặp gỡ, đoàn
tụ của Mị Châu – Trọng Thủy sau cái chết, mà đó là ứng nghiệm của lời nguyền “bị
người lừa dối”. Nhân dân ta thương cảm Mị Châu, dẫu gì cũng đã có thời gian Mị
Châu hạnh phúc bên Trọng Thủy, nên không nỡ để từ “hắn”, “nó”, “y” khi Mị Châu
nói về Trọng Thủy mà dùng chữ “người” – với nghĩa “người ta”, âu cũng là thể hiện
bề dày ứng xử văn hóa. Từ dùng đó cho thấy Mị Châu không đẩy hết tội lỗi về Trọng
Thủy, người nghe biết hàm ý nhận lỗi của Mị Châu trong đó.
Bi kịch của Mị
Châu là bi kịch niềm tin bị đánh cắp. Niềm tin càng lớn thì bi kịch càng cao,
cái giá phải trả càng đắt.
3.
Trọng Thủy – bi kịch của tham vọng công danh
và tình yêu đôi lứa,
Theo lệnh Triệu Đà,
Trọng Thủy đến Cổ Loa làm rể An Dương Vương. Làm rể chỉ là cái vỏ bọc chắc chắn
cho hoạt động gián điệp nhằm ly gián vua tôi An Dương Vương, nắm được bí mật
quân sự, bí mật quốc gia đối phương.
Triệu Đà đã thất
bại trước An Dương Vương, nhưng với dã tâm xâm lược cháy bỏng hắn đã thuộc
lòng, nghiền ngẫm kỹ nguyên nhân thất bại để loại bỏ nó, đi tới thành công. Lần
thứ hai xâm lược Âu Lạc, Triệu Đà sử dụng kế sách: “Biết người biết ta, trăm trận
trăm thắng”.
Để “biết người”,
Triệu Đà dùng con trai mình làm chàng rể - con tin, với nhiệm vụ gián điệp tìm
cho ra sức mạnh quân sự của An Dương Vương. Trọng Thủy có thể bị chết dưới bàn
tay An Dương Vương nếu bị phát giác, nhưng tham vọng xâm lược của Triệu Đà lớn
hơn tình phụ tử!
Khách quan mà
nói, Trọng Thủy là chàng trai xuất chúng, bằng suy luận, chúng ta hiểu điều đó.
Trọng Thủy chiếm trọn lòng tin An Dương Vương, mê hoặc Mị Châu, thực hiện xuất
sắc điệp vụ Triệu Đà giao phó. Là điệp viên, đặt trách nhiệm phụng sự tổ quốc
lên trên hết nhưng Trọng Thủy không khỏi không có những giây phút yếu mềm, suýt
để lộ chân tướng khi chia tay với Mị Châu. Về với Triệu Đà, Trọng Thủy lập được
đại công, nổi danh thiên hạ; ở lại với An Dương Vương, Trọng Thủy có được tình
yêu đôi lứa tuyệt mĩ. Trọng Thủy biết hắn chỉ có được một trong hai điều đó mà
thôi. Là chàng trai xuất chúng, Trọng Thủy không cam chịu, bi kịch cuộc đời y cũng từ đó mà ra.
Nếu như Mị Châu
bình thường như bao phụ nữ khác thì Trọng Thủy dễ dàng dứt bỏ. Tài năng, uy quyền
hoàng tử khó gì chuyện kén vợ xinh đẹp kiêu sa đầy đủ chuẩn mực theo quan niệm
phong kiến. Điều làm cho Trọng Thủy day dứt là tấm chân tình, là niềm tin tưởng
tuyệt đối, là sự trong trắng và trí thông minh…của Mị Châu.
Hoàn thành nhiệm
vụ cho vua cha, Trọng Thủy nghĩ ngay đến việc riêng của mình là làm sao giữ trọn
tình nghĩa vợ chồng với Mị Châu. Trọng Thủy đã giữ lời hứa khi chia tay Mị Châu
nhưng hắn không hiểu được chân lý: “nước mất – nhà tan”. Trọng Thủy không thể từ
bỏ công danh để bảo vệ tình yêu đôi lứa khi quyền lợi dân tộc Âu Lạc không thể chấp
nhận điều đó, và Mị Châu lại càng không thể! Vinh quang chỉ là một khoảnh khắc,
tình yêu mới theo suốt cuộc đời, Trọng Thủy nhận ra điều đó đã muộn. Cái chết của
Trọng Thủy cảnh tỉnh cho những ai đặt công danh, quyền lợi lên trên tình yêu.
Viết đến đây tôi
chợt nghĩ Trung Quốc vừa rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam, thật ấu
trĩ cho những ai xem đó là chiến thắng. Nhiều thông tin cho thấy, ngoài quần đảo
Hoàng Sa đã nuốt trọn, Trung Quốc đã xây dựng xong sân bay quân sự trên một đảo
chìm ở quần đảo Trường Sa! Dã tâm xâm lược Việt Nam chưa bao giờ ngưng chảy
trong dòng máu những kẻ cầm quyền Bắc Kinh. Trên đất liền, tại Vũng Áng – Hà Tĩnh,
số lượng kỹ sư, công nhân lao động hợp pháp và bất hợp pháp người Trung Quốc có
số lượng tương đương sư đoàn; địa bàn chiến lược Tây Nguyên cũng vậy, chưa kể rải
rác ở các địa phương khác. Trong số những người Trung Quốc đó, bao nhiêu là lao
động đích thực, bao nhiêu là “Trọng Thủy”? Điều này chúng ta chỉ biết trông đợi
vào lòng yêu nươc, sự lãnh đạo sáng suốt, cảnh giác của lãnh đạo các cấp mà
thôi.
Biết cái sai của
lịch sử mà lại đi vào vết xe đổ của lịch sử là phản quốc. Truyền thuyết An
Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, thời điểm lịch sử hiện nay càng thể hiện
rõ giá trị về bài học mất nước. Đảng – Nhà nước – Nhân dân cùng thấm nhuần bài
học lịch sử này chắc chắn: “Non sông muôn thuở vững âu vàng”.
Cảm ơn bạn vì lòng yêu nước!
Trả lờiXóaBài viết của bạn làm tôi thêm tin tưởng vào lòng yêu nước của nhân dân!
Trả lờiXóaBài viết của bạn thể hiện tâm huyết của người thầy trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Cảm ơn, chúc bạn sức khỏe!
Trả lờiXóasao loz
Trả lờiXóaBài nghiên cứu có ý tưởng mới, phân tích, đánh giá và liên hệ rất hay.
Trả lờiXóaNguong mo su phu qua. Bai nay e day thay ko hay nhung doc bai viet cua thay e nhan them nhiu dieu nua.perfect.
Trả lờiXóaBài viết hay ở khám phá tác phẩm và cảnh tỉnh nguy cơ giai đoạn hiện nay của dân tộc. Cảm ơn bạn!
Trả lờiXóaCảm ơn bạn vì bài viết hay, sâu sắc.
Trả lờiXóaCảm ơn các bạn đã động viên, khuyến khích!
Trả lờiXóaBài viết sâu sắc, cảm ơn tác giả.
Trả lờiXóa