ĐÒ LÈN
Thuở
nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu
váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt
chim sẻ trên vành tai tượng Phật
và
đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở
nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân
đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi
huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu
hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi
đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà
mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà
đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán
Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi
trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa
bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái
năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ
nghe mùi huệ trắng hương trầm
Bom
Mĩ giội nhà bà tôi bay mất
đền
Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh
với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà
tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi
đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng
sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi
tôi biết thương bà thì đã muộn
bà
chỉ còn là một nấm cỏ thôi.
9 – 1983
Nguyễn Duy thuộc
lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Độc giả say
thơ anh bởi cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, sử dụng ngôn từ mộc mạc mà rất đỗi
tinh tế, tài hoa; trầm tĩnh mà ngang tàng đậm chất lính; cảm xúc và suy tưởng
luôn song hành, nhuần nhuyễn, hết sức tự nhiên trong từng câu chữ. Những điều ấy
làm nên phong cách Nguyễn Duy mà Đò Lèn là một trong những bài thơ
tiêu biểu.
Bài
thơ như một dòng chảy hồi ức từ lúc nhỏ dại đến lúc trưởng thành trong tâm tưởng
tác giả. Xuyên suốt dòng chảy ấy là hình ảnh bà ngoại gắn liền với những địa
danh ở quê hương cùng với những biến cố lịch sử.
Về
mặt hình thức, bài thơ có 6 khổ, một dấu chấm câu cuối bài thơ, chữ đầu mỗi khổ
thơ viết hoa, chữ đầu mỗi dòng thơ viết thường, chắc chắn đây là dụng tâm của
tác giả. Mỗi khổ thơ một mẩu chuyện, những mẩu chuyện ấy kết nối với nhau chặt
chẽ trong quỹ đạo Đò Lèn.
Hai
khổ thơ đầu, Nguyễn Duy kể chuyện sinh hoạt thuở nhỏ và những ấn tượng lưu lại
trong kí ức:
Thuở
nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu
váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt
chim sẻ trên vành tai tượng Phật
và
đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở
nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân
đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi
huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu
hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Những
câu thơ giàu hình tượng gợi lên trước mắt người đọc một cậu bé nghịch ngợm, vô
tư, hồn nhiên. Câu cá, bắt chim, đá gà, chọi dế là thú vui của những đứa trẻ
nông thôn cái thời chưa có máy tính nối mạng internet. Vui hơn là lập được “chiến
công” để kể với bạn bè khi hái trộm được trái cây ở vườn nhà nào đó. Câu Thơ:
và
đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Nguyễn Duy viết chân thực quá. Hầu
như trẻ con ở nông thôn thời bấy giờ là thế cả. Cái tâm lý hồi hộp, lo sợ người
lớn bắt gặp giống như trò chơi mạo hiểm, sợ mà vẫn thích chơi. Người viết bài
này đã từng nếm trải điều đó nên hiểu được điều tác giả kể. “Anh hùng” là thế
nhưng khi bước ra khỏi làng:
níu
váy bà đi chợ Bình Lâm
Cái không gian làng quê ngày xưa
hạn chế rất nhiều việc tiếp xúc với thế giới bên ngoài, do đó đi xa một chút là
lo sợ, mà với trẻ con thì sợ nhất là lạc đường. Chi tiết “níu váy bà” cho chúng
ta biết khoảng độ tuổi tác giả lúc bấy giờ.
Hai
khổ thơ tiếp theo là những suy tưởng của Nguyễn Duy về hình ảnh người bà. Đây
là suy tưởng khi tác giả viết bài thơ này chứ không phải là suy tưởng ở cái thời
trẻ con ấy. Ngày bà mò cua bắt ốc, buôn bán chè xanh lúc khuya lúc sớm dưới giá
buốt mùa đông năm đói ấy, tác giả vẫn vô tư, hồn nhiên, anh thú thực:
Tôi
đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà
mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà
đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán
Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Không
một ai, tài thơ đến mấy có thể thay thế “thập thững những đêm hàn” mà giữ được
nguyên giá trị nghệ thuật, giá trị biểu cảm của khổ thơ. Từ láy “thập thững” là
sáng tạo hết sức độc đáo của nhà thơ nên dù tra từ điển nào cũng không tìm được.
“Thập thững” là cách kết hợp của các từ láy “chập chững”, “thập phương”, “thập
thò” trên cơ sở chọn lọc ngữ nghĩa phù hợp với văn cảnh. “Thập phương” tương ứng
với những địa danh đồng Quan, Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao…”thập thò” là lúc
thấy lúc khuất, “Chập chững” là bước đi không vững. Hình ảnh người bà gánh chè
xanh bước thấp bước cao trong đêm giá buốt, nghĩ lại mới thương xót làm sao!
Tảo
tần, cơ cực làm đủ mọi việc, bà cháu nuôi nhau đói vẫn đói. Điểm tựa tinh thần
của bà là tiên, Phật, thánh, thần, còn điểm tựa của cháu chính là người bà tần
tảo. Nhớ lại thuở ấy, Nguyễn Duy viết:
Tôi
trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa
bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái
năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ
nghe mùi huệ trắng hương trầm
Tin
vào bà là thực, tin theo niềm tin của bà còn mơ hồ, chưa rõ nét lắm. Tiên, Phật,
thánh, thần đâu không thấy, chỉ “nghe mùi huệ trắng hương trầm”. Giữa hai bờ thực
- hư đó, “củ giong riềng luộc sượng” vẫn là bữa cơm năm đói. Thời đói, ăn cái
gì cũng ngon, “củ giong riềng luộc sượng” mà “cứ thơm mùi huệ trắng hương trầm”
khác nào giờ đây thưởng thức món ăn đặc sản của đầu bếp trứ danh khách sạn 5
sao chế biến.
Về thủ pháp nghệ thuật, tài
hoa sử dụng phép đối trong khổ thơ rõ ràng, chuẩn mực, cân xứng:
thực
bà
củ giong riềng luộc sương
|
hư
tiên, Phật,
thánh, thần
mùi huệ trắng
hương trầm
|
Khổ
thơ thứ 5, tác giả tiết chế cảm xúc của mình để kể về một biến cố lịch sử: Mĩ
ném bom miền Bắc. Có độc giả nói với chúng tôi sao trước nỗi đau mất mát đó mà
tác giả kể một cách dửng dưng? Nếm trải những năm tháng hứng chịu mưa bom bão đạn
Mĩ hồi đó mới hiểu vì sao tác giả viết như vậy. Mĩ đã từng tuyên bố hủy diệt,
đưa miền Bắc trở lại thời kì đồ đá. Nhiều thành phố không còn một viên gạch
nguyên vẹn, nhiều làng quê bị xóa sổ. Bệnh viện, trường học, chùa chiền…không
nơi nào tránh khỏi bom đạn, thế nên, hồi tưởng về giai đoạn ấy tác giả cố nén cảm
xúc chủ quan để làm nổi bật hiện thực khách quan.
Bom
Mĩ giội nhà bà tôi bay mất
đền
Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh
với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà
tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Chữ
“tuốt” có thể thay bằng chữ “tất”, lượng thông tin không thay đổi nhưng kém đi
giá trị biểu cảm. Những nơi thờ tự, nơi con người gửi gắm niềm tin vào thế giới
tâm linh còn bị bom Mĩ giội thì nhà bà ngoại tác giả bay mất cũng có là gì?
Nơi
tới lui với thế giới tâm linh không còn mà cuộc sống vẫn phải tiếp tục. Cũng là
“đi” nhưng “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” – tránh bom đạn Mĩ chăng? còn bà
với mưu sinh: “đi bán trứng ở ga Lèn”. Đằng sau những câu từ pha chút hài hước ấy
là tình cảm thương xót vô hạn. Trước kia bà chân trần gánh nặng, “thập thững những
đêm hàn” có vấp một cái đau buốt đến xương vẫn còn hai chữ bình an thì nay “bán
trứng ở ga Lèn” mười phần mạo hiểm với tính mạng. Ga tàu là một trong những trọng
điểm đánh phá ác liệt của giặc Mĩ.
Khổ
cuối bài thơ tác giả bộc bạch tình cảm của mình với bà trong tiếc thương, hối hận.
Cảnh quê ngoại vẫn như xưa nhưng bà đã ra đi mãi mãi. Hai câu kết là lời tâm sự
rất chân thành, người đọc nghe như nước mắt đang chảy vào trong:
khi
tôi biết thương bà thì đã muộn
bà
chỉ còn là một nấm cỏ thôi.
Đọc
lại lần nữa, chúng ta tự hỏi tại sao Nguyễn Duy không dùng “Hồi ức tuổi thơ”, “Quê
ngoại yêu thương”…đặt tên cho bài thơ mà lại dùng Đò Lèn – một địa danh? Trong
kí ức của anh phải chăng ga Lèn là nơi bà chịu cơ cực, nguy hiểm nhất? Và đó
cũng là cái tên bình dị, một chứng tích đau thương của chiến tranh, nghèo đói một
thời khi ta nghĩ về nó? Những câu chữ bình dị hiển hiện trước mắt ta chất chứa đằng
sau những tầng bậc xúc cảm, muốn lên được tới đỉnh phải nắm được tay vịn suy
tư, đồng cảm, yêu thương mà tác giả đã san sẻ
Với Đò Lèn, Nguyễn Duy đã đóng góp khối đá quí trong lâu đài văn học nước nhà. Càng ngắm, người đọc càng thấy lấp lánh ánh sắc Việt, thoang thoảng mùi huệ trắng, hương trầm.
Với Đò Lèn, Nguyễn Duy đã đóng góp khối đá quí trong lâu đài văn học nước nhà. Càng ngắm, người đọc càng thấy lấp lánh ánh sắc Việt, thoang thoảng mùi huệ trắng, hương trầm.
Bạn giải thích cách dùng từ "thập thững" rất thuyết phục. Bài viết hay, cảm ơn bạn!
Trả lờiXóaBài viết hay, cảm ơn tác giả.
Trả lờiXóaSâu sắc, thuyết phục. Cảm ơn tác giả.
Trả lờiXóaHay quá, cảm ơn tác giả nhiều nhiều!
Trả lờiXóaCảm ơn các bạn đã động viên.
Trả lờiXóaBài viết làm mình đã yêu thơ Nguyễn Duy càng yêu hơn. Cảm ơn tác giả!
Trả lờiXóaLí giải nhan đề Đò Lèn rất thuyết phục, cảm ơn tác giả1
Trả lờiXóa