Tử Văn đi rạc cả chân, mỏi mệt, tựa lưng vào
chân tượng đài, lấy tờ báo “Tuổi Trẻ” xem lại mục quảng cáo tuyển người. Công
ty trách nhiệm hữu hạn có, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có, văn phòng đại
diện có…đã nộp 15 bộ hồ sơ, nơi nào cũng đánh giá “năng lực tốt” nhưng nơi nào
cũng bảo để lại số điện thoại, có gì liên hệ sau. Bà chủ phòng trọ nói ở cái thời
buổi này có tài giỏi đến mấy, không có tiền “bôi trơn” kèm theo đố mà xin được việc. Tử Văn hiểu điều
đó nhưng lại nghĩ chẳng lẽ ở cái thành phố này không còn một nơi nào tử tế,
trong sạch? Còn 3 cái hồ sơ, Tử Văn quyết tìm nộp cho xong, hy vọng sẽ có một
cánh cửa mở ra với mình.
Lục
túi xách, lấy mẩu bánh mì, tử Văn cắn từng miếng nhỏ nhai chầm chậm. Không phải
nhai chậm để thưởng thức mà vì mẩu bánh mì khô cứng quá. Mỏi chân, mỏi hàm rồi
mỏi cả mắt, Từ Văn thiếp đi lúc nào không hay.
Tử
Văn nghe tiếng gió thổi rì rào nhưng những hàng cây lại đứng im phăng phắc. Một
ông lão cao lớn, mắt cụp xuống, nét mặt buồn bã chống gậy bước tới. Nhìn dáng
người thì cây gậy ông cụ chống không hợp cho lắm. Chống gậy cho ra vẻ thì e rằng
đó không phải là ý muốn ông cụ. Cây gậy khắc dòng chữ gì đó Tử Văn nhìn chưa
ra. Cúi đầu chào cho phải phép, ông cụ gật
đầu, cười gượng mà mắt rơm rớm. Tử Văn thấy lạ, hỏi:
-
Cụ có chuyện gì buồn? Cháu giúp gì được không?
Ông cụ hỏi lại:
-
Chỉ anh là đang có thiện cảm với ta, còn hầu hết người ta dửng dưng. Bộ dạng ta
khó coi lắm phải không?
Tử Văn không hiểu sao ông cụ lại
nói thế, nhìn nét mặt, vóc dáng, Tử Văn đáp:
-
Thú thật với cụ, cháu thấy cụ to lớn khác thường, thần sắc không được tốt, ánh
mắt cứ nhìn xuống như sợ sệt điều gì đó, lưng còng hình như là bị tật chứ không
phải do tuổi tác.
Ông cụ thở dài:
-
Anh tinh tường đấy. Ta gù lưng, chân đi không vững vì chúng rút bao nhiêu là
gân cốt. Do đó, hình hài này có chút thiện cảm với mọi người đã là con số không
tròn trĩnh nói chi được chiêm ngưỡng yêu quý rồi “cảm hóa, giáo dục”!
Tử Văn chưa hiểu ý, ông cụ biết
điều đó, ngồi xuống bên cạnh, lấy một chiếc kẹo từ trong túi ra.
-
Anh hãy ăn chiếc kẹo này rồi nói mùi vị cho ta nghe.
Nhìn ánh mắt của cụ như mong ước
một điều gì đó, anh không thể chối từ. Kỳ lạ làm sao, ngậm chiếc kẹo trong miệng,
Tử Văn thấy rất rõ sự chuyển biến của vị giác.
-
Thưa cụ, ban đầu con thấy đắng, hết vị đắng đến cay, hết cay rồi đến ngọt ạ.
Nét măt ông cụ rạng rỡ hẳn lên:
-
Đây là chiếc kẹo cuối cùng của ta. Chiếc kẹo thứ 18.
Đôi mắt cụ sáng trong, ấm áp lạ
lùng, ánh mắt của một con người mãn nguyện.
-
Vị đắng cho ta biết anh là người ngay thẳng, trung thực, vị cay cho biết cuộc đời
anh lắm chông gai, nhưng mừng thay vị ngọt lại là một kết thúc có hậu.
Cầm bàn tay Tử
Văn, ông cụ nói:
-
Nhân duyên cho chúng ta gặp nhau, anh đừng hỏi nhiều, nhớ kỹ lời ta nói là được!
Tử
Văn cảm nhận được luồng hơi ấm từ bàn tay cụ nắm lan dần khắp cơ thể. Anh từ từ
khép mắt lại, mơ thấy ông cụ chính là vị giáo sư khả kính đang đứng trên giảng
đường:
-
Người Việt ta quý cái xinh xắn, cân đối, hài hòa, đơn lẻ trong kiến trúc hơn
qui mô, hoành tráng. Đình chùa miếu mạo, tượng Phật, La Hán bao giờ cũng vừa phải,
tạo nên sự gần gũi. Đây là đặc trưng tâm linh của văn hóa làng xã cấy trồng lúa
nước. Hơn 4.000 năm lịch sử, biết bao
nhiêu người con ưu tú ngã xuống trong những cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, biết
bao nhiêu người tài đức giúp dân lạc nghiệp mà có mấy người được lập đền thờ, tạc
tượng hay khắc công bia đá? Dân ta quan niệm tượng đài vĩnh cửu nhất là được
truyền tụng trong nhân gian:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
Ngưng lại một chút như hoài niệm
quá khứ, giáo sư giảng mà như tâm sự:
-
Tại sao chiêm ngưỡng La Hán chùa Tây Phương, tượng Phật trước thời thuộc Pháp
chúng ta có cảm giác rưng rưng trong lòng? Bởi vì cái khổ đau, tù túng, đói
nghèo của một giai đoạn lịch sử dân tộc được những bàn tay tài hoa, tâm huyết tạc
nên. Cha ông ta gửi gắm tâm hồn mình qua bố cục, nét khắc hay nói đúng hơn những
suy tư, trăn trở lái bàn tay cầm đục, cầm chàng…Còn bây giờ tượng đài, phù điêu
nhiều như nấm mọc sau mưa, nhưng giá trị nghệ thuật, tuổi thọ công trình như thế
nào? – Kém lắm phải không? Đôi lúc chỗ này chố nọ còn có những công trình phản
cảm, cuối cùng phải dỡ bỏ vì phản bác của dư luận. – Vì sao như thế, trình bày
chính kiến xem nào? Giáo sư chỉ Tử Văn. Anh đứng dậy theo phản xạ, im lặng giây
lát, trả lời chầm chậm, ngập ngừng, cách nói biểu hiện chưa thật sự tự tin:
-
Thưa giáo sư! Em nghĩ tượng đài, phù điêu thời đại chúng ta thiếu hồn vì người
thực hiện chưa ngang tầm với ý tưởng sáng tạo của tác giả ạ.
-
Còn gì nữa không? Có ai bổ sung thêm?
Giáo sư nhìn khắp giảng đường. Tất
cả im lặng, sự im lặng thụ động thường thấy khi những câu hỏi nêu ra đòi hỏi sự
động não cao.
-
Cái gốc không ở đó. Cha ông ta sáng tạo những công trình nghệ thuật xuất phát từ
nhu cầu tâm hồn, còn bây giờ người ta sáng tạo xuất phát từ nhu cầu vật chất.
Cái nhu cầu vật chất nó chi phối tất cả, từ ý tưởng thiết kế, duyệt thiết kế
cho đến thực hiện tác phẩm. Người tài không thiếu đâu các anh chị ạ, cái thiếu
nhất là bản lĩnh của người có tài. Khó hiểu quá hả? Tôi lấy ví dụ thế này, một
mẫu thiết kế tượng đài được chọn, tác giả phải có tiền “bôi trơn” cho hội đồng
thẩm định hay ký mà không nhận tiền bản quyền. Vì sao người thiết kế làm như vậy?
Anh ta bỏ công sức ra kiếm cái danh. Tượng đài gắn liền với tên tuổi anh ta, tượng
đài càng hoành tráng thì đó là sự chứng thực cái danh càng lớn. Có “danh” rồi
lo gì không kiếm tiền được ở những công trình kế tiếp, anh ta nghĩ như vậy. “Hội
đồng thẩm định” rồi “giám sát thi công”, bên B – thi công công trình, và nhất
là chủ đầu tư có tiền cả, vậy là vui vẻ đôi đường…Thế nhưng, từ phác thảo, thiết
kế mẫu ban đầu đến thi công hoàn thiện lại là một khoảng cách rất lớn. Lẽ ra để
đứa con tinh thần của mình căng tràn sức sống, bố đẻ nó phải theo sát quá trình
thi công, chỉ huy tu chỉnh từng ly từng tý, nhưng anh ta không làm vậy. Vì sao
ư? “Cốc mò cò xơi”, làm không công thì tận tâm tận lực làm gì, đằng nào thì tác
phẩm cũng được duyệt rồi. Đấy là lý giải vì sao tượng đài vô hồn. Đáng thương
cho tác giả, cần cái danh mà thiếu tâm huyết, đam mê, kiên trì để theo đuổi đến
cùng. Gạt ra ngoài vấn đề vật chất, tâm huyết, đam mê, kiên trì theo đuổi cái đẹp
đến cùng đó chính là bản lĩnh.
Giáo
sư bước lên bục giảng, viết lên bảng dòng chữ: “Sau này anh ta có kiếm tiền được
ở những công trình khác như anh ta nghĩ không?” rồi ông chỉ 3 sinh viên lên bảng
viết ngắn gọn câu trả lời của mình.
Cậu
sinh viên có cái trán cao ghi: “Không! Vì tác phẩm của anh ta không có ấn tượng
với người xem nên chả ai dại gì hợp đồng với anh ta.”
Cậu
mập lùn viết: “Có! Anh ta phải suy nghĩ làm sao để có tiền nuôi vợ nuôi con.
Suy nghĩ của anh ta ra sao chỉ anh ta mới biết.”
Cô
sinh viên lưng eo, tóc xõa đen mượt, chữ đều, đẹp: “Không! Anh ta không thể kiếm
tiền như suy nghĩ ban đầu của anh ta được. Thời đại kim tiền, “hội đồng thẩm định”
lại chọn những tác phẩm của kẻ cần danh, mượn cái vỏ bọc nghệ thuật để đầy túi
tham của họ!”
Giảng đường đầy ắp tiếng cười khi
đọc câu trả lời của anh mập, vị giáo sư cũng cười, chờ cho không gian yên lặng
trở lại, ông nói:
-
Cái tài được mọi thời đại công nhận bao giờ cũng gắn liền với những con người
có bản lĩnh. Tôi rất tâm đắc với Huấn Cao của Nguyễn Tuân, Vũ Như Tô của nguyễn
Huy Tưởng ở bản lĩnh người nghệ sĩ…
Giáo sư bước xuống bục giảng, giơ
bàn tay trái ngang vai như khi người ta tuyên thệ:
-
Tóm lại, giáo sư thở dài, muốn có một tượng đài, công trình kiến trúc có hồn
thì tác giả, hội đồng xét duyệt, thẩm định phải là những người không bị lợi
danh chi phối…
Bỗng
dưng một trận mưa tiền rào rào xuống giảng đường, rồi gió nổi lên, những đồng
tiền cuồn cuộn xoáy cuốn phăng sinh viên, cuốn phăng cả giảng đường. Tử Văn
nhìn lại chỉ còn cô sinh viên eo thon và vị giáo sư khả kính. Một luồng gió nữa
lại nổi lên, mù mịt. Gió ngưng, mở mắt ra, Tử Văn thấy mình, vị giáo sư, cô
sinh viên eo thon đứng trước một cái bình gốm lam vẽ hoa sen cao ngang đầu người.
Xúm đen xúm đỏ xung quanh là những bác thợ gốm, thương lái, nho sinh, thợ cấy,
tiều phu…và cả một đám lính kỵ đứng sau viên quan mặt phèn phẹt. Mà vị giáo sư
sao lại ăn mặc như ông đồ? Cô sinh viên eo thon tóc xõa mượt mà bây giờ lại yếm
thắm đội khăn mỏ quạ? Nhìn lại mình, Tử Văn ngỡ ngàng đang vận chiếc áo dài
thâm hàn nho…Đang phân vân thì ông đồ vỗ vai, khen:
-
Đúng là kiệt tác phải không cậu?
Giữa những tiếng xuýt xoa là câu
nói của bác thợ cả:
-
Hàng cống Tàu đấy, không khiếm khuyết gì phải không các bác?
Ông đồ mắt sụp xuống, cô nàng đội
khăn mỏ quạ đỏ mặt, Tử Văn như mắc xương trong cổ họng. Cố nuốt nướt bọt, chàng
nói:
-
Rất nhiều khiếm khuyết là đằng khác!
Mọi người ngạc nhiên, bác thợ cả
nói:
-
Xin tiên sinh chỉ giáo.
Tử Văn rành rọt, âm hưởng lời nói
cuồn cuộn từ trong lồng ngực:
-
Cống một sản phẩm chúng chỉ được một. Dã tâm của chúng là muốn được tất cả. Cho
nên rồi đây, sau cống vật là cống nhân tài, các bác không muốn xa vợ con, xa
quê hương chứ?!...
“Bo…oang…oo…”, mọi người giật bắn
mình. Tử Văn cầm cái dùi đồng đập vào, cái bình vỡ một miếng bằng bàn tay.
-
Á…á…á! Ngươi phải chết, tên quan mặt phèn phẹt hét lên, lính đâu, phanh thây thằng
nho sinh khốn kiếp cho ta!
Năm sáu tên lính
kéo Tử Văn ra khoảng đất trống trước lò gốm, nơi người ta dùng để phơi cốt gốm
hay ra hàng buôn bán. Tên quan lạch bạch bước lại, cầm cái thòng lọng tròng vào
cổ Tử Văn, đầu dây bên kia tên lính đang buộc vào trục chiếc xe ngựa. Chúng
đang rải dây đến bốn con ngựa khác thì giật mình bởi tiếng thét:
-
Khoan đã! Ta sẽ chết thay cho chàng!
Thì ra đó là tiếng
thét của nàng đội khăn mỏ quạ, mày thanh môi đỏ, cốt cách thanh cao, xinh đẹp lạ
thường. Tên quan mặt phèn phẹt, da mặt láng bóng, đỏ như gà chọi quay lại. Ngẩn
người trước vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn, y nuốt nước bọt:
-
Hừm…Có thể đem cống cô này thay cái bình được đấy! Nhưng hắn vẫn phải chết, trừ
khi chiếc bình lành lặn lại như trước!
-
Được rồi, nhà ngươi nói phải giữ lời!
Nàng bước đến
trước mặt Tử Văn, đôi mắt trong, dịu dàng, ấm áp nhìn chàng như tha thiết, như
tôn kính, như khích lệ.
-
Có duyên gặp chàng ở đây dù chốc lát nhưng tình nghĩa ngàn năm đeo đẳng. Mong rằng
mai sau chàng vẫn mãi giữ được bản lĩnh như ngày hôm nay.
Dứt lời, nàng tỏa
ra hào quang. Vầng hào quang càng lớn bóng nàng lại mờ dần. Vầng hào quang bay
lên cao rồi trùm xuống chiếc bình khiến mọi người hoa cả mắt. Khi vầng hào
quang tan hẳn vào ánh nắng, chiếc bình vẹn nguyên không tỳ vết, như được tạc từ
nguyên khối mã não khổng lồ.
-
Trời, bông hoa sen như đang từ từ nở ra kìa.
-
Ôi! Hình ảnh trận chiến Bạch Đằng dữ dội quá!
Tên quan khều
người lính bên cạnh, thì thào:
-
Sao tao không thấy hoa sen đâu, chỉ thấy ngài Chu Văn An dâng thất trảm sớ?
Tử Văn nhìn đi
nhìn lại chiếc bình, khi thấy nàng ngồi trên cầu ao chải tóc, hoa sen đỏ rực,
khi thấy nàng thổi sáo, dệt vải…nhưng dù ở tư thế nào đi chăng nữa, đôi mắt đẹp
vẫn dõi theo chàng đắm đuối, đôi môi hé cười. Rồi nàng cởi cái khăn mỏ quạ, áng
tóc đen mượt xõa xuống, nàng đưa tay vẫy, một con hạc vàng sà xuống chở nàng
bay lên khuất dần sau làn mây trắng…
Tử
Văn đưa tay lên vẫy từ biệt nàng nhưng không thể được. Cố mãi, cố mãi, vung tay
một cái thật mạnh, anh chợt tỉnh lại, rút bàn tay mình khỏi bàn tay ông cụ.
-
Nội lực căng tràn, trái tim rực lửa, quý lắm, giống như ta ngày xưa…Có những kẻ
thuyết phục người ta rằng hắn đang làm điều hay, điều tốt nhưng thực ra đang
che đậy lòng tham vô đáy. Than ôi…cứ như chúng muốn làm điều gì tốt cho ta ư?
Không đâu, chỉ thêm một vết nhọ lên mặt khiến đồng bào, thiếu nhi xa lánh ta
thêm mà thôi!...
Ông
cụ đứng dậy không được, Tử Văn tính dìu, cụ xua tay:
-
Đừng dây vào ta, cây gậy chúng quẳng cho ta quả có sức mạnh ngàn tấn đấy anh à.
Cụ run run chống
gậy đứng lên. Lúc này Tử Văn mới thấy rõ dòng chữ khắc trên cây gậy: “Chất lượng
công trình tốt”, cạnh dòng chữ là con dấu đỏ: “Kiểm định chất lương”.
Tử
Văn cũng đứng lên. Anh sực tỉnh, hóa ra nãy giờ thiếp đi dưới chân tượng đài.
Cái túi xách lăn lóc bên cạnh tòi ra 3 bộ hồ sơ chưa nộp. Nhặt cái túi, nhìn
lên, tấm biển đá sứt một góc khắc dòng chữ: “Tượng đài lãnh tụ với nhân dân…”
Truyện hay, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa