Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

THÓI ĐỜI

         
          Ghét cay ghét đắng cái thói đời
          Xu thời nịnh thế kiếm chác thôi
          Vì tí lợi quyền ngưu tầm mã
          Đá bát xưa nay thấy nhiều rồi.

          Ghét cay ghét đắng cái thói đời
          Bất tài vô tướng nó lên ngôi
          Mượn lệnh, to mồm lời đe nẹt
          Công bằng, dân chủ nước trôi xuôi…

          Ghét cay ghét đắng cái thói đời
          Nhân tài là thứ rác rưởi thôi
          Miễn có cha ông làm quan lớn
          Ngu dốt lo chi cái ghế ngồi!...

          Ghét cay ghét đắng cái thói đời
          Bất bình ta chửi đổng thế thôi
          Giọng thơ cóc nghiến lời chua chát
          Bé họng  vang đâu thấu tới trời!

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

SAO EM NỠ LÀ EM

        
           Cái ngày phải xa anh
          Trời vẫn xanh nhưng lòng em héo úa,
          Anh đừng nghĩ đường em đi trải đầy nhung lụa
          Chân vô hồn mỗi bước một thêm đau.

          Dải hoa trắng người ta cột lên đầu
          Đấy đích thực vành khăn tang tình ái,
          Em ước chi đó là vòng hoa dại
          Thuở ngày xưa anh kết lại tặng em!

          Em biết anh đau buốt con tim
          Cay đắng lắm, yêu thương nhiều lắm,
          Mà hận cuộc đời trái ngang, ảo mộng
          Khi tấm lòng vẫn ngóng về nhau…

          Anh đau đời không thể nén nỗi đau
          Em là dao đâm nát lòng anh đấy,
          Ngàn năm sau trái tim anh vẫn vậy
          Nên hận mình sao em nỡ là em?!...

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG ĐỜI


CHƯƠNG VII

            Thằng Vệ lăn qua lăn lại trên chiếc dát giường đặt trên nền xi măng. Nó không thể ngủ được vì muỗi, rệp. Buồng tạm giam không chật lắm nhưng ẩm mốc, bốn bức tường loang lổ, lở lói do nước mưa ngấm và những dòng chữ, hình vẽ bậy bạ được khắc vào đó. Thằng Vệ cũng muốn khắc chữ gì đó để giết thời gian, và quan trọng hơn, để một “kỷ niệm” ở đây, sau này được thả ra có chuyện mà nói với đám bạn. Hai bao phân đạm, bán được sáu đồng rưỡi, có lẽ hợp tác xã mua cùng lắm là mười đồng. Chẳng lẽ bố mẹ nó không vay mượn đâu ra mười đồng đền cho người ta để nó được về nhà. Bố nó không dám để nó bị giam lâu đâu, nó biết. Bị giam lâu có nghĩa là nặng tội. Nó nặng tội thì bố càng khó nhìn mặt người làng. Nếm mùi một đêm ở đây là đủ rồi, vài ba đêm chắc chết.

            Phẩy tay đập con muỗi trên má, mông nó lại bị rệp cắn. Chống tay ngồi dậy, bắp chân lại bị cắn miếng nữa. Rệp đâu mà lắm thế! Tính dậy dựng dát giường lên dỗ, giết hết bọn rệp quái ác nhưng nền buồng giam tối sao mà thấy được? Nó nghĩ ra cách khác, không nằm trên dát giường nữa, nằm trên nền xi măng tốt hơn. Áp má vào nền, mùi ẩm mốc, khai khai nồng nặc hơn. Cái mùi khai bất giác làm nó buồn tiểu. Bụng dưới của nó mỗi lúc một căng ra. Từ chín giờ tối qua tới giờ nó chưa đi tiểu. Cửa buồng giam khóa, làm sao bây giờ? Không nín được nữa, nó đứng dậy xỉa chim vào tường. Nước tiểu không loang ra nền nhà mà chảy theo khe nứt giữa móng và nền. Nó cảm thấy nhẹ cả người.
            Ánh sáng ngọn đèn điện ngoài hành lang chiếu qua cửa sổ lên bức tường đối diện như màn hình chiếu bóng. Hai chữ “oan quá” được khắc lớn, ở giữa màn hình làm nó liên tưởng chữ “hết phim”. Cách đây một tuần, sau khi xem xong bộ phim “Những người báo thù không thể bị bắt”, nó rủ thằng Tập đến kho hợp tác xã ăn trộm phân đạm. Thằng Tập hỏi ngộ nhỡ bị bắt thì sao, nó nói đếch có thằng nào coi kho thì ai bắt. Thằng Tập lưỡng lự, nó lại nói hai đêm trước nó đã lấy được bảy kg. Thằng Tập vẫn còn do dự, nó bảo có bị bắt nó chịu hết cho, lúc đó thằng Tập mới dám đi theo.
            Chuyện nó ăn cắp phân đạm giống như ai đó xui khiến. Mẹ kêu nó đi chăn trâu luôn tiện cắt gánh cỏ để bà đi nhận phân đạm nhưng nó không chịu. Chăn trâu cắt cỏ phải mất cả buổi, lên kho hợp tác xã nhận hai chục kg phân còn khối thời gian đi chơi.
            Chờ mãi gần tới ba giờ chiều bà kế toán Diệu Ly mới tới ký phiếu xuất kho. Cái dáng đi điệu đà, hơi nhún nhảy với dép cao gót, tóc phi dê của bà ta hợp với dự đám cưới, lên sân khấu hơn là đi trên con  đường đầy phân trâu và in dấu chân trần nông dân gánh vã. Chỉ mươi mười lăm người mà ai cũng nhao nhao đòi nhận trước. Anh Được thủ kho nuôi vợ đẻ nên Diệu Ly xuất kho giùm. Bà ta nói với nó: “Ở đây chỉ có cậu là trai tráng, vô kéo mấy bao phân ra chút coi”. Nhờ đó, nó mới phát hiện ra cái vách gỗ có mấy tấm ván xộc xệch lắp không đúng khe, chỉ cần xoay qua một chút là tháo ra được. Trên đường về, nó nghe bà Sáu sẹo nói với chị Thảo: “Không biết kiếm đâu ra mà mụ Suất khi nào cũng có phân đạm bán lẻ, vài ba kg lúc nào cũng có”, “Thế còn mua cả bao?”, “Thì lên chợ huyện, mấy nhà gần cổng chợ đó”, “Xa quá, mất công quá, chi bằng cứ đặt trước bà Suất năm bảy bữa khỏe hơn”, “Cũng chẳng khỏe gì, mua bằng tiền của mình mà vẫn cứ phải lén lén lút lút như đi ăn cắp…”
            Nghe bà Sáu sẹo và chị Thảo bàn tán vậy, gánh về nhà, nó kiếm cái bì ni lông, hốt một mớ dem giấu ngoài cổng, ăn cơm xong nó đem ra nhà bà Suất hỏi bán. Nó sẽ giành cho bà chị nỏ mồm của nó một sự bất ngờ.
            - Có ai biết cậu đem ra đây không?
            - Không đâu!
Nhấc nhấc bịch phân đạm, bà Suất nói:
            - Ba hào.
            - Răng có ba hào? Bà cân lên thử coi!
            - Có chút xíu chứ nhiều nhặn chi mà cân cho mất công. Không bán cậu đem đi chỗ khác!
Nó đành gật chứ đem đi đâu được. Cất chỗ phân đạm, phủi tay, rót bát nước chè xanh, mở thẩu lấy miếng kẹo lạc đưa cho nó, bà ta nói:
            - Ăn kẹo, uống nước đi, tui không trừ tiền mô mà cậu lo.
Rồi bà Suất dặn từ nay về sau có món gì cứ đem ra bà mua tất. Nó hỏi vậy cả bao phân đạm giá bao nhiêu, bà ta đáp:
            - Cứ chục cân là đồng mốt ba xu, cứ rứa mà tính.

            Mờ mờ sáng, nó nghe tiếng còi rồi tiếng chân chạy rậm rịch, tiếng hô thể dục ở khu tập thể đồn công an. Thế là đã qua một đêm. Không biết bố nó có lên xin cho nó về không, tự nhiên bụng nó như có lửa đốt.
            Thời gian chậm chạp trôi đi, hết đứng lên, ngồi xuống lại vịn cửa sổ nhìn ra xa. Cái đường luồn hẹp bởi bức tường dãy nhà làm việc mới xây chắn ngang, có cố nhìn cũng chỉ thấy một khúc đường ngắn. Những dáng người trên xe đạp, gồng gánh vừa hiện ra đã vội biến mất, không đủ để nhận dạng một ai dù rất đỗi thân thiết. Còn sớm quá, có lẽ bố chưa lên được đâu, từ nhà lên đây cũng mấy tiếng đồng hồ chứ ít gì. Nghĩ vậy, nó lại nằm xuống nền buồng giam. Chong mắt nhìn những dòng chữ, hình vẽ trên tường, chợt nó nhớ phải khắc chữ gì đó. Mò trên nền xi măng nó tìm được viên đá bằng đầu ngón tay gần cửa ra vào. Chọn được một khoảng trống gần cửa ra vào, ngang tầm mắt nó miết viên đá vào tường. Viết chữ chi hè? Nó đứng đực ra giống y như thầy giáo gọi lên bảng hỏi bài cũ. Không thể viết lại những gì người ta đã viết. Trên tường đã xuất hiện một vệt hơi xeo xéo do nó cứ cà đi cà lại viên đá. Phải rồi, cứ ghi tên mình là hay nhất. Cà xong chữ Vệ, nó lại nghĩ như thế chưa mấy ai biết nên khắc tên bố vào luôn. Hừm, sau này làng nó có đứa nào vào đây chắc chắn sẽ thấy tên nó…Đang cà chữ “B” thì cửa buồng giam mở. Chưa kịp vất viên đá thì “bốp”, mắt nó thấy cả trời sao:
            - Đã vào đây còn phá phách, đi ra!
“Ông nội mày”, thằng Vệ rủa thầm nhưng vẫn cung cúc theo sau. Đến trước sân đồn, anh ta nói:
            - Quét cho sạch cái sân đi!
Làm xong việc được giao, vừa ngồi xuống bậc tam cấp, nó lại “được” anh ta giao việc khác:
            - Xách hai cái xô này xuống giếng múc nước đổ vào cái bể kia. Khi nào đầy thì vào báo.
Cái bể nhìn thì nhỏ nhưng xách đổ mãi mực nước không lên được bao nhiêu, cứ y như là lủng đáy vậy. Hay thế thật? Đổ xong xô nước, nhìn kỹ đáy bể, không có vấn đề gì cả. Cái van xả nước cũng không rỉ một giọt. Chán nản quá. Rồi nó cứ uể oải dần. Gàu nước xách lên nặng hơn, đoạn đường từ giếng đến bể cũng xa hơn. Mỏi tay, mỏi chân, cả người như rã rời. Múc gàu nước không còn đầy nữa, xô nước đổ vào bể cũng lưng dần. Đói, đói quá. Bụng réo, mồ hôi trán đổ ra, chân tay bủn rủn. Ra sao thì ra, nó không thể xách nước được nữa. Ở nhà giờ này có bát cơm nguội hay củ sắn vào bụng rồi…
            - Xong chưa mà ngồi đấy?
Nó đáp:
            - Tui làm không nổi. Đói quá, mệt quá.
Anh công an nhìn chằm chằm vào mặt nó:
            - Con nhà nông mà lười lao động. Mấy cái việc vặt này mà không làm nổi thì bảo sao không vướng vào…
Bỏ lửng câu nói, cho nó nghỉ, bảo nó rửa mặt rồi vào phòng làm việc của anh ta ngồi chờ. Từ bếp ăn tập thể trở về, anh công an đưa cho nó bát ngô răng ngựa hầm.
            - Tiêu chuẩn sáng của chúng tớ đấy, ăn tạm nhé!
Bát ngô hầm cứng, chưa sạch mùi vôi nên dù đói thằng Vệ cũng không thể ăn nhanh được. Nhìn nó nhai trệu trạo, anh công an cười:
            - Mỏi răng lắm hả? Trừ lúc đói quá, nếu không tớ nhịn luôn.
          Anh công an cũng không ác lắm, thằng Vệ nghĩ thế. Mình bị ăn cái tát là cũng do mình. Nhưng mà đau quá. Có lẽ anh ta thường xuyên luyện võ nên mạnh tay chăng? Người ta nói công an giỏi võ. Mà không giỏi sao bắt cướp, bắt gián điệp! Làng nó hồi trước có ông Bát Sinh giỏi võ lắm, chưa một ai to tiếng với ông. Không dám vì sợ bị đánh hay ông hiền quá nên không đụng chạm đến ai không biết nữa. Cứ có võ là thích rồi! Các anh lớp trước xin ông dạy võ cho, ông nói:
            - Học võ phải kiên trì, mất thời gian lắm. Thời bình rồi các cháu học chữ, học nghề tốt hơn…
Nó nghĩ lan man, quên cả nhai, anh công an hỏi:
            - Không ăn nổi à? Ra bể rửa giùm cái bát rồi vào đây làm việc.
Thằng Vệ đứng lên, nó nghĩ phải “hỏi cung” chứ sao lại “làm việc”? Thôi, mặc kệ, gì cũng được, mong sao sớm được thả là được, nằm một đêm buồng giam ớn lắm rồi.
            Khi nó ngồi xuống chiếc ghế thì anh công an đã để sẵn tờ “biên bản lấy lời khai” trên bàn. Anh vừa hỏi vừa ghi.
            - Cậu trộm phân đạm hợp tác xã bao nhiêu lần?
            - Hai lần.
Dừng lại một chút, anh công an nói:
            - Thế cậu bán phân đạm mấy lần?
Thằng Vệ cúi mặt xuống bàn:
            - Dạ, ba lần.
            - Thế sao nói ăn cắp có hai lần?
            - Dạ, một lần lấy ở nhà hai lần lấy ở kho hợp tác xã.
Rồi đột nhiên nó nói:
            - Em khai hết anh có cho em về không?
Anh công an gõ gõ cây bút lên mặt bàn.
            - Cũng còn tùy thuộc vào mức độ thành khẩn hay diễn biến sự việc nữa.
Rồi anh lấy tờ giấy manh đưa cho nó, nói:
            - Cậu viết tường trình vào đây, theo thứ tự sự việc, không được bỏ sót chi tiết nào nhé.
            Thằng Vệ cố gắng nắn nót, mấy dòng đầu nét chữ khá đều rồi sau đó cứ xiên xẹo dần. Nó chặc lưỡi, thôi kệ, miễn người ta đọc được là được, có phải làm văn để chấm điểm đâu. Viết xong mặt giấy, ngẩng lên không thấy anh công an đâu cả nó lại cúi xuống viết tiếp. Từ khi đi học đến giờ chưa khi nào nó nghiêm túc như lúc này. Bài văn cô giáo cho về làm ở nhà phải bốn năm bữa nó mới viết xong. Có lần, bài văn của nó được cô giáo đem ra đọc “mẫu”. “Một bài văn mẫu vì lỗi diễn đạt và logic”. Đề bài nói về gương lao động, học tập của anh thương binh ở địa phương mà em biết. Lúc đầu nó viết về chú Tấn, được nửa mặt giấy nó sực nghĩ chú Tấn không phải là tấm gương “học tập”, với lại chú nhiều người yêu quá, ai cũng biết nên nó không viết nữa, bỏ vào túi xách, để đấy rồi quên béng đi. Sinh hoạt mười lăm phút đầu giờ, lớp phó học tập nhắc cuối buổi nộp bài cho cô, nó mới cuống lên, hỏi mượn bài thằng Huy sứt để chép thêm vào phần bài nó đã viết. Nó sửa đôi chút cho cô giáo không phát hiện. Thằng Huy sứt viết: “Anh Diệu bị hai vết thương, một ở chân trái, một ở Khe Sanh”, nó sửa: “Anh Điệu bị hai vết thương, một ở Khe Sanh, một ở chân phải”…Đoạn đầu nó viết về chú Tấn, khúc sau lại “anh Điệu”, cô giáo hỏi sao lại thế, cả lớp cười ầm lên, con Thu lém chọc: “Đó là tên khác của của chú Tấn mà bạn Vệ mới “phát hiện” cô ạ”…

            Có bước chân đi ngang qua trước cửa, nhìn ra thấy ông chủ nhiệm hợp tác xã và bà kế toán Diệu Ly. Thấy nó, ông ta cười khẩy, quay sang bà kế toán, cốt cho nó nghe thì phải:
            - Anh Cường đội trưởng hẹn gặp ở phòng làm việc. Vào đồn công an bọn trộm cắp khôn hồn thì người ta nói gì nghe nấy, bảo chép gì phải chép nấy, nếu không ở tù mọt gông.
Nghe lão nói mà ghét. Người ta kháo nhau lão là con mọt có cỡ. Công xá chủ nhiệm, giỏi lắm gấp đôi bố nó, năm thì mười họa mới ra đồng nhưng nhà ngói cột lim, xe đạp hai cái. Lão ta  cưỡi chiếc fa-vô-rít Tiệp, bà vợ thỉnh thoảng trèo lên chiếc xe mi-fa, mỗi khi đạp phải nhón chân, lưng lắc lư theo cái mông đít ngoay ngoáy, nhìn từ phía sau ai cũng phải bật cười. Cái xe mi-fa chắc không rẻ hơn chiếc fa-vô-rít, thằng Đinh, con lão đạp xe đến trường, đám học trò xúm đen xúm đỏ bóp chuông, thử phanh, có đứa hỏi giá bao nhiêu, nó vênh mặt: “fa-vô-rít đạp ít đi nhiều, ai hỏi bao nhiêu - một ngàn năm chục”.
            Khoảng mười giờ sáng anh công an mới quay lại. Cầm bản tự khai của thằng Vệ đọc đi đọc lại mà vẻ mặt cứ trầm ngâm. Thằng Vệ sốt ruột hỏi:
            - Khi nào thì em được về hả anh?
Anh công an không trả lời câu hỏi của nó, hỏi lại với tiếng “em”, nghe thân mật hơn:
            - Khi em đến kho có nhớ chất mấy lớp bao không?
            - Em không để ý nhưng chất dưới thăt lưng của em.
            - Bằng cách nào em tháo hai tấm ván vách sau được?
Thằng Vệ trả lời việc nó nhìn thấy hai tấm ván không lắp vào ngạch dưới, chỉ cần xoay một chút là gỡ ra được. Anh công an lại hỏi:
            - Lần lấy bảy kg em có gỡ ván ra không?
            - Em không gỡ, chỉ lấy ống nứa vót nhọn thọc qua khe xuyên vào bao cho nó chảy ra thôi.
Anh công an gõ gõ bút trên bàn, thằng Vệ hỏi:
            - Anh cũng biết đánh trống đội à?
            - À, ừ, hồi học cấp hai anh tham gia đội nghi thức của trường. Rồi anh hỏi lại nó:
            - Lần sau lấy trộm xong em có dựng tấm ván lại không?
            - Dạ có.
            - Vì sao em dựng lại?
            - Em sợ người ta phát hiện.
            - Em sợ phát hiện, lắp lại để sau này lấy tiếp, đúng không?
Thằng Vệ nhìn anh công an, ánh mắt trong sáng:
            - Anh đoán sai rồi, anh không nghe người ta nói “sự bất quá tam” à?
            - Là sao?
            - Là đi ăn trộm lần thứ ba sẽ bị lộ. Bà Tuyết và mấy bà, cả bố em cũng từng nói như thế.
            - Em có tin không?
            - Sao không tin, em bị bắt rồi đấy thôi!
Anh công an rót cho nó ca nước, chờ nó uống xong, anh hỏi:
            - Em không sợ ăn cắp nhà trường biết chuyện sẽ đuổi học à?
            - Em không sợ, nhà trường không đuổi em cũng nghỉ học.
            - Sao thế?
            - Tại em học dốt quá.
            - Vì em không chịu khó thôi, anh trông em mặt mũi cũng sáng sủa đấy chứ. À, mà sao em vác được hai bao?
            - Khiêng chứ anh! Nó buột miệng.
Anh công an nhìn thẳng vào mắt nó, nói chậm rãi:
            - Em nói khai thành khẩn nhưng thật ra em còn che dấu người phạm tội. Anh biết điều đó, em có cần anh nói ra hay không? Anh muốn tự em nói để xem mức độ thành khẩn đến đâu mà thôi.
Thằng Vệ cúi mặt xuồng, nói lí nhí:
            - Em sợ…
            - Nhà trường đuổi học không sợ, vậy sợ cái gì?
            - Sợ bạn em nói không giữ lời.
            - Giữ lời hứa là tốt nhưng em giữ lời hứa với bạn là bao che cho tòng phạm, như vậy tội em nặng hơn đấy.
Ngần ngừ một lát, thằng Vệ nói:
            - Anh biết rồi em cũng nói luôn, là do em rủ thằng Tập. Em năn nỉ mãi nó mới nghe. Anh đừng bắt nó, nhà trường đuổi học nó thì bố nó giết nó mất, nó học giỏi lắm.
Anh công an trầm ngâm một lúc, lại gõ gõ cây bút lên bàn.
            - Thế em chia tiền cho cậu Tập như thế nào?
            - Em đưa nó ba đồng hai năm xu nhưng nó không lấy. Nó bảo nếu mua dép cho chị còn thừa tiền thì mua cho nó một xếp giấy trắng để nó kẻ giấy kiểm tra.
            - Mua dép cho chị là sao?
            - Chị em dành dụm tiền mua đôi dép nhựa gót cao, chưa mua được thì tiêu hết vì bố em bệnh.
            - Em cũng thương chị đấy nhỉ nhưng quà tặng phải tự tay mình làm ra mới có ý nghĩa chứ.
            - Em cũng biết vậy nhưng em tức…
            - Tức cái gì?
            - Bà Diệu Ly nói với vợ ông chủ nhiệm: “Con gái ông Bạc hỏi tui mua dép ở đâu, giá bao nhiêu. Tui nói mua ở cửa hàng bách hóa huyện, chỉ mấy đồng thôi hà…cái ngữ ấy là gà thì chịu kiếp gà đi còn se sua đội lốt công”.
            - Vì một câu nói mà em hành động như thế à? Nếu người ta xúc phạm nặng hơn thì em giết người ta chắc?
Mặt thằng Vệ đỏ lên, nói với anh công an bằng lời nói cương cường, vị thế của người không chịu lép, chịu kẻ khác ức hiếp:
            - Ai nói sao cũng mặc kệ nhưng bà Diệu Ly thì không thể được. Bà ta làm kế toán mà sao giàu thế? Em nghe người ta nói bà ta và cả ông chủ nhiệm nữa, giàu có là do tham ô. Bà ta đi làm ruộng như mọi người thì có giàu không? Giàu không chính đáng mà khinh người.
Anh công an đẩy ca nước về phía thằng Vệ.
            - Uống miếng nước đi.
Nhìn thằng Vệ như xem tướng, anh nói:
            - Giả sử đi, anh nói giả sử nhé, người ta tham ô, em ăn trộm thì có gì khác nhau. Em biết tham ô hay ăn trộm là xấu, cần phải lên án, trừng trị mà em cũng mắc phải đấy thôi.
            Thằng Vệ nghĩ anh công an nói đúng nhưng không biết nói sao cho anh hiểu mình ăn cắp không phải là cho mình, mình khác bà Diệu Ly và ông Hoàng Hói. Nó định nói ăn cắp một lần rồi thôi. Nói thế anh công an có tin không? Nó đã ăn cắp ba lần, mà lần sau lại nhiều hơn lần trước…Nó nghe nói bà kế toán và ông chủ nhiệm tham ô nhưng tham ô cái gì thì không ai chỉ ra được, chỉ thấy người ta giàu hơn, vượt bậc hơn xã viên hợp tác xã nên bàn tán vậy. Ghét nhất là vợ ông Hoàng Hói, bà Diệu Ly trước mặt người khác hở ra là khoe của, khinh người…
            Bà kế toán, ông chủ nhiệm đi ngang qua cửa phòng, họ nói chuyện với nhau nhưng có lẽ cốt để cho anh công an và thằng Vệ nghe thấy:
            - Để trong kho còn mất, vụ trước gửi nhà ông đội trưởng có trời mà biết được phải không anh?
            - Có lẽ phải họp toàn thể xã viên để lấy ý kiến đề nghị tống mấy thằng trộm cắp vào tù. Nhơn nhơn ở ngoài còn gì là an ninh làng xã nữa.
            Đợi họ đi ra khỏi cổng, anh công an nói với thằng Vệ:
            - Em ngồi đây viết bổ sung bản tường trình, viết đầy đủ các chi tiết em vừa nói nhé!

            Nói xong anh công an đi ra ngoài. Thằng Vệ bưng ca nước uống, chợt nó nhìn thấy chú Tấn dắt xe vào cổng đồn, chi Lài cắp nón cúi mặt đi sau. Nó nghĩ bố hay mẹ lên thì còn đỡ chứ chị Lài gặp nó thì làm toáng lên cho mà xem.

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

CHUYỆN TÌNH VƯỜN CHUỐI


Một đêm trăng sáng bờ sông
Những tàu lá chuối ưỡn cong hứng tình
Gió đùa, cợt nhả gái trinh:
“Nằm đây chơi chút, một mình vội chi”.
Nằm nghe tàu chuối hát ru
Nở vào giấc ngủ vô tư nhẹ nhàng,
Gió hư tốc mứn…lộ hàng
Trêu ngươi, thách thức anh chàng Chí say,
Duyên trời đã định ở đây
Làm chồng cái đã…sau này…tính sau!
Lạc hoan như có phép màu
Dở, ương “yêu” cũng chiều nhau lạ kì,
Yêu cho hồn tái phách tê
Cho no  thân xác cho mê mẩn đời,
Yêu cho ngưng cả đất trời
Ánh trăng thấm đẫm sương rơi vườn tình!...

Chuyện “yêu” chẳng kể đẹp, xinh
Chí liều mà Nở hớ hênh…thế là…

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG ĐỜI


CHƯƠNG VI

            Cánh đồng Rộc lúa đang thì con gái xanh mơn mởn. Mỗi khi có gió, những làn sóng xanh gợn lên, trông mê mẩn người. Năm nay thuận trời nên không đám ruộng nào bị bỏ hoang.
            Hai sào ruộng nhà ông Bạc, mọi khi cha con ông làm một ngày là xong, nhưng nay làm cỏ trễ lại một mình Lài nên xem chừng phải hai công rưỡi. Vừa làm cỏ cô vừa cố nuốt cục tức. Tuần trước, Lài phải lên bệnh viện chăm bố, cứ nghĩ ở nhà mẹ và thằng Vệ làm cỏ xong rồi. Lài và ông Bạc về, bà Mùi không nói chuyện cỏ rả gì cả, cứ thế lên đồi nhổ sắn về xắt lát phơi khô.
            Trưa hôm qua, ông Bạc đi họp về, nói:
            - Mai hai bố con đi làm cỏ lúa, cỏ nhiều quá.
Lài ngạc nhiên, bước xuống bếp hỏi mẹ:
            -Tuần trước bà mần chi mà không làm cỏ lúa? Khi tui về cũng không nói?
Bà Mùi mát mẻ:
            - Tui không phải ba đầu sáu tay, vườn tược, trâu nghé bỏ được à?
            - Rứa thằng Vệ ở mô?
            - Ở mô, ở mô có trời mà biết! Ngoài bữa ăn ra là biến mất dạng!
            Lài không nói nữa, có nói cũng thế thôi. Cứ nghĩ sau này mình đi lấy chồng, bố già đi, ốm đau luôn thì không biết cái nhà này sẽ như thế nào. Thằng Vệ, bằng thằng Toàn mà suốt ngày tụm năm tụm ba lêu lổng. Mà giờ này thằng Toàn ở đâu, có tìm được mẹ không? Nghĩ tới thằng Toàn, Lài cứ áy náy trong người. Thực tình, Lài không ghét thằng Toàn nhưng vì chuyện mẹ nó nên ghét lây. Hồi thằng Toàn bỏ đi được hai hôm, chị Phượng không nói chắc chắn bố bỏ công buổi đi tìm nó. Cái hình ảnh bố bỏ ăn, không làm nên việc gì, gương mặt khó đăm đăm, rầu rĩ trông thật tội nghiệp. Rồi không hiểu vì sao nó lây sang Lài nỗi chán chường. Ba giờ sáng, thức dậy đi tiểu, thấy bố vẫn thức ngồi hút thuốc lào vặt đầu hồi nhà, nói bố vào ngủ, ông thở dài: “Bố có tội với chú Triệu, bố chết không nhắm mắt được con à.”
            Mặt trời dần khuất sau dãy núi xa xa. Khi ánh nắng chiếu ngược lên, từ cánh đồng nhìn vào, dãy núi cứ xanh đậm dần, hình như là xanh tím. Thỉnh thoảng, từng đàn cò bay ngang vẽ nên một không gian yên ả lạ lùng. Lài vừa vơ cỏ, nhấn sâu xuống bùn vừa hát. Lẩm nhẩm trong miệng không rõ giai điệu nên cô lấy hơi hát nho nhỏ:
            Dòng sông quê em, dòng sông quê anh
            Sóng xanh như mắt trẻ, sao giống nhau đến thế
            Tiếng mưa như tiếng tằm ăn, tiếng mưa như tiếng tằm ăn
            Sông cho anh làm thơ…
            - Anh nỏ mần thơ mô, chỉ mần thợ thôi!
Sau câu nói là tiếng cười của chú Tấn làm Lài giật mình, đỏ mặt. Chưa biết đối đáp sao thì chú lại tiếp tục:
            - Hát hay rứa mà không tham gia đội văn nghệ xã.
Lài đánh trống lảng:
            - Chú Tấn đi mô về rứa?
Chú Tấn cười:
            -Ở nhà gọi chú vô rú (rừng) gọi anh. Em không gọi được một tiếng “anh” cho tình cảm à?
Lấy lại được sự tự tin, láu lỉnh vốn có, Lài cười:
            - “Chú anh Tấn” chưa trả lời em là đi cưa bà lão nào về?
            - Đã sinh ra kiếp đàn bà hơn dăm ba tuổi vẫn là làm em. Với lại, như anh đây đẹp trai nhất huyện nhì xã thứ ba xóm thì ra đường em mô mà nỏ mê. (em nào chẳng mê)
            - Nhiều em mê nên mãi tới bây giờ chưa chọn được em nào “trộm khăn móc túi”!...
            - Nhiều thì nhiều người thật, nhưng anh đây có người thương rồi.
            - Ai rứa anh?
            - Con gái ông Bạc, bà Mùi!
Lài móc cục bùn ném. Chú anh Tấn cười như xe ben đổ đá:
            - Yêu anh, Lài ném cục bùn
            Yêu Lài, chìa má anh hun cấy mồ (hôn cái nào)
Hai tay cầm hai cục bùn, bước lên bờ thì chú anh Tấn đã chạy xa rồi. Vừa chạy vừa quay đầu lại lè lưỡi “lêu..lêu…”
            Lài bật cười, quay xuống ruộng. Thế nào rồi mai mốt cũng rộ lên chuyện Lài là người yêu của “chú anh Tấn” cho mà xem. Ở cái làng này, hơn chục cô chưa chồng là “người yêu” của chú anh Tấn(!) Về tuổi tác, đám thanh niên gọi chú Tấn là đúng nhưng chú Tấn không đời nào chịu. Cứ là con gái, mười sáu mười bảy tuổi trở lên cho đến trung niên, chưa có chồng là chú Tấn xưng “anh – em” ngọt lịm. Ai “cả gan’ xưng “chú – cháu” là thế nào cũng có chuyện. Người ta sợ cái độ lì của chú, không trưa thì tối, đến nhà căn vặn người ta: “tui còn trai tân răng gọi là chú?”. Biện bác lại, chú lại “lý luân” viện dẫn cả cách xưng hô tây tàu đối chiếu, so sánh…Sau này, làng xóm hiểu ra có mà thừa hơi mà tranh cãi với anh khùng, gọi tiếng “anh” cho xong chuyện. Người “phát minh” ra cách gọi “chú anh Tấn” là Phượng. Đám thanh niên chọc: “Người ta là trai tân mà sao o Phượng gọi là “chú anh Tấn” hè(!) Chú anh Tấn biện bác: “Cũng có tiếng “anh” chớ, em Phượng gọi rứa được vì em Phượng đẹp, làm người yêu tui được”.
            Chú Tấn học giỏi có tiếng, đi bộ đội đánh Mĩ được tặng nhiều danh hiệu, nào là “Dũng sĩ diệt Mĩ”, “Dũng sĩ diệt xe cơ giới”, huân chương chiến công…Bị thương ở chiến trường Quảng Trị, chú được chuyển ra bắc điều trị, có chế độ ở trại thương binh vĩnh viễn nhưng chú xin phục viên. Về quê, bỏ luôn chế độ thương binh, ai nói sao cũng mặc. Chú  nói: “Bạn bè trong đại đội chết hết, tui còn sống là may mắn lắm rồi. Mấy ông nói cống hiến, nói xương máu? Cống hiến chính là cha mẹ vợ con người lính. Còn xương máu, nên tập trung chế độ cho liệt sĩ. Mấy ông không ở chiến trường nên không biết, hy sinh nhiều lắm. Bị thương như tui lại càng nhiều. Thôi, cứ coi như tui bị tai nạn lao động đi. Còn sức lao động được thì đừng ỉ lại, đừng dựa vào ai, kể cả nhà nước”.
            Rồi xã cử chú đi học lớp Trung cấp chính trị, tính sắp đặt công việc gì đó cho phù hợp. Học được hai ngày, chú kêu đau đầu, nghỉ luôn làm thợ mộc. Khéo tay, cẩn thận, sáng tạo, nhận tiền công vừa phải nên không hết việc làm. Việc nặng nhọc thì kêu thêm người, chú chủ yếu quản khâu kỹ thuật. Đợt xã tổ chức lao động công ích thủy lợi, Phượng hỏi:
            - Chú anh Tấn răng không học dể mần cán bộ?
Chú Tấn cười:
            - Mần dân thích hơn. Mần cán bộ thì làm chi gần gũi được với các em yêu.
            - Ai mà dám yêu chú anh Tấn. Người ta yêu phải chung thủy, đằng này chú anh Tấn thấy em mô đẹp cũng yêu cả.
Chú Tấn bỗng nhiên nghiêm nghị:
            - Răng nói anh không chung thủy? Răng nói anh yêu nhiều người?
Rồi bỗng dưng chú khóc, không ai hiểu chuyện gì cả. Chú nói trong tức tưởi:
            - Hu…hu…Thành ơi…Dũng ơi…Sơn ơi…Có nghe em Phượng nói không…bây hấp hối nói tau …phải sống cho bây…hu…hu… yêu cho bây nữa…tau chưa tìm được người yêu cho thằng Hoàn…nói chi cho tau…Sơn ơi…em Phượng của mày nói tau …hu …hu không chung thủy…mà tau…đã có người…yêu..mô…hu…hu…
Bầu trời như thấp xuống, nặng nề u uẩn. Mấy đứa con gái mắt rưng rưng. Thì ra là vậy, chú Tấn mang theo ký ức hòa lẫn vào đời sống thực. Sang chấn tâm lý, hậu quả ghê gớm hội chứng chiến tranh làm chú Tấn mê mà tỉnh. Lâu nay, đám thanh niên chọc ghẹo chú như chọc ghẹo một người khùng. Mà có lúc người ta vô tâm quá, ngay như chuyện hành xử tức thì của Lài cũng vậy. Khi không thật quan tâm, hiểu và cảm thông cho người khác thì bột phát trong ứng xử cũng là tự nhiên thôi. Nghĩ lại, Lài thấy việc quan tâm người khác thành nếp, thường trực trong ý thức khó quá…Cho đến bây giờ, chỉ mình anh Tân là Lài luôn lo lắng, yêu chiều những gì có thể.

            Con cua đồng kẹp vào ngón út đau điềng, rảy nó không thả. Lài giơ nó lên khỏi ngọn lúa, đưa tay trái tính bẻ càng nó, chưa kịp bẻ cái càng cua còn lại kẹp luôn vào ngón tay cái. Đưa càng cua vào miệng cắn, bất ngờ nó thả ngón tay cái kẹp ngay vào cánh mũi Lài. Chưa bao giờ gặp phải tình huống như thế này. Tức chết đi được nhưng vẫn còn may. May vì không có ai ở đây, chứ không người ta cười cho thúi mũi. Bẻ cái càng cua kẹp ngón út, nó nhíp lại đau hơn. Đau tay một chút không là gì chứ bẻ càng kẹp mũi nó nhíp cho chảy máu, lỡ nhiễm trùng sưng tấy đỏ thì hóa thành thị Nở mất. Mỗi tay cầm một mấu càng, Lài kéo ra thật mạnh. Gỡ được rồi định ném thật mạnh lên đường cho bõ tức thì thấy cái yếm nó cơi lên đầy một bụng trứng nên Lài thả nó xuống ruộng. “Mi là con cua đực thì nát thân với tau rồi”, cô lẩm bẩm.
            Sâm sẩm tối, có cố thế nào cũng mất buổi nữa đành ra mương nước rửa tay chân. Vừa bước lên đường thấy thằng Tập hớt hơ hớt hải chạy lại.
            - Chị Lài về mau, công an bắt thằng Vệ đưa lên huyện rồi!
Lài hốt hoảng:
            - Răng mà bị bắt, công an bắt khi mô?
            - Hồi chiều, hắn bị bắt vì ăn trộm phân đạm của hợp tác xã.
Chân tay Lài bủn rủn. Cô nghĩ đứa em chơi bời lêu lổng do tính nết lười biếng cộng với sự nuông chiều của bố mẹ, còn việc nó trộm cắp chưa bao giờ thoáng qua trong suy nghĩ của cô. Từ nay về sau người trong làng trong xóm sẽ nhìn nhà mình với con mắt khác, đàm tiếu, móc máy rồi một nói thành năm, thành mười, thêm dấm thêm ớt, thành câu chuyện làm quà…mẹ thì có lẽ không sao chứ bố khó vượt qua được cú sốc này. Đôi khi trò chuyện với Lài, bố tự hào: “Họ hàng bên nội các con người giàu có, nghèo có nhưng tuyệt đối không ai trộm cắp, vướng vào vòng lao lí”. Không biết ông có nói điều đó với ai không nữa? Bố không nói thì người ta dè bửu một, nếu nói thì dè bửu mười. Cứ nghĩ đến đó trong lòng cô phấp phỏng bồn chồn, những tháng ngày tới đối mặt với xóm làng sao đây…Rồi Lài nổi cơn bực tức, từ đứa em lêu lổng đến ông Bac, bà Mùi. Cô đay nghiến trong lòng: “Đó, bà mặc kệ nó giờ nó bôi tro trát trấu vào mặt rồi:, “Bố cái gì cũng nhẫn nhịn, nhẫn nhịn để tạo cái vỏ gia đình nền nếp à? Bố chống mắt lên xem thằng con trai quý tử, thằng cháu đích tôn báo hiếu đó…”
            Tới đầu ngõ xóm, dưới cây đa, mấy người xóm ngoài đi nhổ sắn về, ngồi nghỉ, túm tụm bàn tán.
            - Thật tội cho ông Bạc, chưa hết chuyện em dâu nay lại chuyện con cái.
Bà Sáu sẹo the thé:
            - Nào chỉ có chuyện em dâu, con cái. Bà Mùi cũng xí xọn lắm, cái sừng trên đầu ông Bạc thành cái gạc nai rồi.
Bà Tuyết cởi khăn trùm đầu lau mồ hôi trán, nói:
            - Bà đừng nói rứa mà phải tội, cái chi biết thì mới nói. Biết năm biết mười mà nói một thì nó hay hơn.
            - Xì…bà đừng có mà đạo đức giả. Tui dựng chuyện chắc?!
Nhác thấy Lài, mọi người im bặt. Bà Sáu sẹo giả lả:
            - O Lài đi làm ruộng về à, siêng quá. Ai cưới được o Lài là phúc đức lắm đó.
Lài nén cục tức lại, cố ra vẻ bình thản nhưng trong giọng nói không khó để người ta nhận ra sự mai mỉa:
            - Cái phúc bên vợ không bằng cái nợ bên chồng mô bà ạ!
            Một câu nói nghe qua thường tình thôi nhưng với bà Sáu sẹo thì đau hơn hoạn, đám người đi chung hiểu thế. Chả là con gái bà Sáu sẹo “xinh nhất hàng tổng”, đám trai làng đừng có mà xớ rớ. Nó xinh như thế phải gả vào nơi quyền quý cao sang nở mày nở mặt chứ không thể lam lũ được. Bà Sáu sẹo nói thế và làm thế thật. Gả cái Luyến cho con ông trưởng phòng tài chính huyện, đám cưới rình rang lắm. Ngày lại mặt, hai vợ chồng xe hơi về làng bấm còi bin bin, oách lắm. Rồi đám giỗ nhà vợ, chàng rể lại đánh xe con chở nhạc phụ đi mời mấy ông tai to mặt lớn trong làng, trong xã. Khổ nổi khi đi quên mang theo cái que xâu dép bằng đồng lá, nên khi dép tụt quai đành bỏ trong xe, ông Hiệp chân đất vào nhà chủ nhiệm hợp tác xã. Bà vợ Hoàng Hói từ bếp xách siêu nước lên, thấy vậy cười:
            - Áo bỏ trong quần, thắt củ lạc, răng mà lại đi chân đất, ông Hiệp?
            - Dép tụt quai, tui để trong ô tô.
Phượng cầm chiếc nón đứng dậy, mói:
            - Chân dép lốp bước lên tàu vũ trụ còn được, chân đất bước lên xe hơi là chuyện thường, ông nhẩy.
Hoàng Hói cười cái điệu cười nịnh:
            - Hi..hi...o Phượng hài hước mà sâu sắc ghê!
Phượng chào ông Hiệp, vợ chồng Hoàng Hói, bước ra cổng. Con rể ông Hiệp cười với lời chào, đong đưa:
            - Chào người đẹp, người đẹp đi đâu, lên xe anh chở đi.
Phượng cau mày;
            - Sao dám xưng anh với tui?
            - Em bằng tuổi vợ anh, chắc là bạn bè, phải không? Mà bạn của vợ cũng là bạn của chồng, đúng không nà!
Phượng nghĩ cái loại háo sắc này không trị không được, cô à ơi:
            - Tui cũng nghĩ rứa. Với lại tui không xứng ngồi trên chiếc xe ni.
            - Trời, em mà không xứng thì trên trái đất này không còn ai xứng, anh chỉ sợ ngược lại thôi.
            - Đàn ông ai cũng đầu môi chót lưỡi. Tui chừ lên huyện, có chở được không?
            - Được, được chứ! Chở ông chủ nhiệm về nhà bố Hiệp rồi anh đón em đi liền. Con rể ông Hiệp liến thoắng. Phượng làm bộ e ngại:
            - Rứa có được không? Còn đám giỗ nhà vợ thì…
            - Không sao đâu, chàng rể bà Sáu sẹo cướp lời, năm nào chả có đám giỗ.
            - Nhưng mà răng lại tự nguyện chở tui đi?
            - Anh đã nói rồi, giúp bạn là việc nên làm. Với lại có người đẹp ngồi bên tay lái là niềm tự hào. Anh tôn sùng cái đẹp mà!
            - Luyến đẹp nhất hàng tổng, Bà Sáu khẳng định thế còn gì?
            - Luyến đẹp nhất hàng tổng thì em đẹp nhất hàng tỉnh, hàng quốc gia, anh nói thật đấy!
Phượng bỗng nghiêm nét mặt, giọng đanh lại:
            - Lúc nãy chừ mi xưng anh với tau, lại còn cợt nhả, tán tỉnh nữa. Mi không biết thì về hỏi vợ mi. Mẹ vợ mi kêu tau bằng o, o lớn đó, rứa thì mi biết phải kêu tau răng rồi!
            Con rể bà Sáu sẹo tái mặt. Vừa lúc ông Hiệp, Hoàng Hói đi ra, Hoàng Hói cười đểu:
            - Xe đẹp nhẩy, o Phượng?!
            - Cháu gặp bà o, hỏi chút chuyện. Con rể bà Sáu sẹo lấp liếm.
Hoàng Hói nghĩ không ra, Phượng có họ hàng chi với bà Sáu sẹo mà thằng rể ông Hiệp kêu “bà cô”? Khi ăn cỗ, Hoàng Hói đem chuyện hỏi, Bà Sau sẹo chửi:
            - Mẹ tổ cái con mất dạy, tui với nó có họ hàng chi mô!
Hôm sau, đi chợ, bà Sáu sẹo nói chuyện với bà Suất – người hay đưa chuyện nhất làng:
            - Con Luyến về nhà chồng mà không quên giỗ chạp. Vợ chồng nó về lo hết. Tui mời mười mâm khách mà nó kêu ít!
            Chừng hơn một năm sau tai họa ập xuống nhà chàng rể. Luyến sinh đứa con gái bị sứt môi. Ông nội đứa bé bảo phải ra Hà Nội vá, chưa kịp đi thì ông bị đình chỉ công tác về tội tham ô. Chồng Luyến gây tai nạn, mà là tai nạn kép. Thì ra chiếc xe lâu nay chàng rể đi là mượn của hợp tác xã liên hiệp vận tải. Đầu xe bẹp rúm, nghe đâu sửa lại được cũng bằng hai phần ba số tiền mua xe mới. Lại nữa, cô gái đi cùng bị gãy chân, dập lách phải chuyển ra Hà Nội điều trị dài dài. Chàng rể chấn thương sọ não, bác sĩ bảo sống được nhưng rất khó hồi phục trí nhớ… Bà mẹ chồng chỉ mặt Luyến:
            - Mày là con ác nanh mỏ đỏ mang tai họa đến nhà tau. Một mình mày báo chưa đủ hay sao mà đẻ thêm con ác nanh con nữa, trời ơi là trời…
            Luyến đành đem con về nhà mẹ đẻ. Mẹ con cứ thay nhau ốm đau bệnh tật. Mới mấy tháng mà gái một con trông gần như đã năm mươi. Khổ nhất là nghe người ta móc máy: “Dạo này không thấy ô tô về làng nữa, ông nhẩy”, “Đám giỗ nhà bà Sáu sẹo năm nay chắc hơn chục mâm chớ, năm ngoái đã chục mâm rồi…”, “Đời nỏ biết ai hơn ai, như ngồi xe bò lốp anh Hoài đánh đi mời đám giỗ hơn ngồi ô tô khét lẹt mùi xăng bà nhẩy…”
            Hoài là chàng trai năm xưa cưa cẩm Luyến. Khi nghe bà Sáu sẹo tuyên bố chỉ gả con gái cho nơi phú quí, Hoài chém nhát dao vào cột thề phải giàu sang hơn bất cứ người nào trong dòng họ bà Sáu sẹo. Hai lăm tuổi, anh đã có cơ ngơi người trong làng ai cũng mong muốn. Ao cá rộng, có nước ra nước vào, mỗi năm thu vài tấn. Chân ruộng cao và mấy công đất đồi trồng cỏ nuôi tám con bò cái. Từ khi sắm được chiếc xe bò lốp kéo thuê cho người ta không hết việc, sợ con trâu mộng không đủ sức nên lại tậu thêm một con nữa. Mười ngày đi kéo xe đủ trả tiền thuê người phụ việc và chi phí chi tiêu cả tháng cho Hoài và bà mẹ già. Làm ăn vững vàng, kinh tế phát triển thấy đươc là thế nhưng Hoài vẫn chưa nghĩ gì đến chuyện vợ con. Mỗi lần thấy bóng Hoài là Luyến lại lánh mặt. Có lần Hoài chặn lại, nhìn Luyến với ánh mắt xót xa: “Tui có phải hủi đâu mà Luyến trốn. Luyến yếu đuối thì gục luôn đó, cố mà đứng lên, đứng lên được thì cố đi, đi được rồi chạy, cái chi cũng phải cố gắng, tình cảm cũng rứa, Luyến à!”
            Tối đó, Luyến bỏ cơm. Bà Sáu sẹo nói:
            - Mi không thương cái thân mi thì thương tau với. Đổ bệnh xuống đó thì ai lo? Cố mà nuốt những thứ ngày xưa từng nuốt đi con ạ, có nghe tau không?
            - Nghe bà nên tui giờ mới thế này đây!
            - Mi nói rứa mà được à? Hồi đó mi cũng ưng làm dâu nhà đó chớ.
            - Tại bà cấm cửa anh Hoài. Chừ đi mô người ta cũng đàm tiếu, tui muốn chết quách cho xong.
Bà Sáu sẹo hạ giọng:
            - Mi đừng nghĩ quẩn. Có lẽ mi hồng nhan nên bạc phận con à. Nhà đó đuổi thì ly dị đi, rồi kiếm đám khác, khi khỏe lên, đẹp ra thì khối thằng mê!
            - Thằng mô mà mê gái bỏ chồng, họa có điên.
Rồi Luyên lại bàn, xới bát cơm hấp sắn cố nuốt mà cứ nghẹn mãi. Ở nhà chồng ăn trắng mặc trơn, bữa nay món này mai món khác. Nhà mình quanh năm suốt tháng hết cà lại nhút, canh rau vặt, bữa nào vội lại chan nước chè khô. Gắp miếng nhút, Luyến tự nhủ: phải tập lại, phải quen trở lại. Anh Hoài nói đúng lắm, phải cố lên không thì gục mất…

            Bà Sáu sẹo cứ trân ra sau câu nói của Lài. Sao nó ác khẩu thế. Ừ, con gái bà sa cơ nhưng nhà bà cô có hơn gì? Mà cái thân cô nữa, qua truông rồi hãy hay cô a!
            Ở đời, ai cũng cho mình là tốt, mình có quyền phán xét người khác. Họ có hay đâu những câu nói, ánh mắt, cái khịt mũi, phẩy tay…làm tổn thương kẻ khác chính là liều thuốc độc đang dần dần hủy hoại nhân cách họ. Người ta thấy cái xấu, cái sai của người khác rõ như nhìn bằng kính hiển vi. Cho nên, việc phán xét, bình phẩm, nhạo báng cũng tương đồng theo cách nhìn ấy. Lẽ ra nên thông cảm, sẻ chia cho nhau thì người ta lại làm điều ngược lại. bà Sáu sẹo cũng quá mà o Lài cũng không vừa. Thấy bà Sáu sẹo trân ra, bà Tuyết thở dài, cho đòn gánh vào đầu gióng, nói:
         - Ta về thôi, bà Sáu!

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

KHÔNG THỂ QUÊN EM

        
              Anh không còn trong trái tim em
            Thay vào đấy là bóng hình kẻ khác,
            Em sẽ lại đắm say, khao khát
            Như yêu anh nồng thắm buổi đầu?

            Em trong tay người ấy về đâu?
            Xin đừng bước qua nhịp cầu thuở trước
            Đừng đến vườn cau trong đêm trăng khuyết
            Trao thề nguyền hẹn ước trăm năm…

            Một mình anh đi dưới trăng rằm
            Con đường cũ bỗng dưng xa lạ quá
            Đường gập ghềnh hay bóng anh nghiêng ngả
            Khi phương nào anh cũng một anh thôi.

            “Nỗi đau nào rồi cũng nguôi ngoai”
            Hắt ly rượu, bạn anh nói thế
            Ừ, anh hiểu cuộc đời dâu bể
            Sao đắng lòng không thể quên em!...